Nhiệt liệt chào mừng 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024) và Ngày Quốc tế lao động 01/5!

Thứ tư, 8 Tháng 5, 2024 - 22:57

Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh và ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay

Thạc sĩ Phạm Huỳnh Minh Hùng
Khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Năm 1946, trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau, Người đã có lời căn dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng về kế sách quản lý, điều hành đất nước trong điều kiện chính quyền cách mạng còn non trẻ và đang ở tình thế “Nghìn cân treo sợi tóc” trước sự chống phá của các lực lượng phản động với câu nói bất hủ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Trong các nền triết học từ xưa đến nay một trong các vấn đề trung tâm luôn được bàn đến là mối quan hệ giữa cái bản thể và cái hiện tượng, giữa cái bất biến và cái vạn biến. Trong đó, bản thể là cái không thay đổi so với hiện tượng. Còn hiện tượng thì đa dạng, phong phú luôn vận động, biến đổi, chuyển hoá nhưng đều xoay quanh trục của nó là bản thể. Ý nghĩa triết lý của vấn đề này là ở chỗ trong cuộc sống mỗi người nên nắm cái bản thể, tức là nắm giữ cái lớn lao, cái căn bản, cái lâu dài, cái toàn cục đừng sa vào những việc vụn vặt, nhỏ nhen nhất thời. Nên đứng ở cái “chốt”, cái bất biến mà quan sát và hành động để dung hoà, quân bình vạn vật. Lịch sử cho thấy các bậc thánh nhân, người hiền luôn đứng ở cái bất biến mà quan sát vạn biến. Dùng cái bất biến ứng phó cái vạn biến mà làm cho thánh nhân trường cửu, thánh nhân bất biến. Cho nên, trong cuộc sống điều cốt yếu là ta phải nhận ra đâu là cái vĩnh hằng trong cái tạm thời, đâu là cái toàn bộ trong cái cục bộ, đâu là cái lâu dài trong cái trước mắt, đâu là cái bản chất trong cái hiện tượng, đâu là cái bất biến trong vô vàn cái vạn biến.

Kế thừa những tinh hoa về tư tưởng biện chứng của các bậc tiền nhân, Hồ Chí Minh đã vận dụng triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” rất đặc sắc và uyên thâm. Tuy triết lý này không được Người trình bày, giảng giải cụ thể nhưng xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình Hồ Chí Minh đã vận dụng nó một cách sáng tạo từ những năm bôn ba tìm đường cứu nước đến suốt quá trình lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như khi Người ở cương vị là Chủ tịch nước, qua đó góp phần đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.

Trong nội dung triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” ở Hồ Chí Minh cho thấy có năm cái lớn, cơ bản gắn bó chặt chẽ, quan hệ mật thiết với nhau và cùng quy định đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc và hạnh phúc của nhân dân đó là: Độc lập, dân chủ, giàu mạnh, tự do và hạnh phúc. Năm nội dung này được phân chia thành hai cấp độ: Cấp độ thứ nhất: Độc lập; Cấp độ thứ hai: Dân chủ, giàu mạnh, tự do và hạnh phúc.

Trong hai cấp độ trên thì cấp độ thứ nhất giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, đầu tiên là phải độc lập. Vì không có độc lập là vong quốc, bị kẻ thù xâm lược và đô hộ, nhân dân bị áp bức và bóc lột thì lấy đâu ra tự do, dân chủ, hạnh phúc và giàu mạnh. Cho nên, độc lập là cái bất biến cao nhất và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Thấu hiểu tình cảnh nước mất nhà tan, xã hội điêu linh, nhân dân lầm than mà Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước cũng là mong sao giành được độc lập cho dân tộc. Người khẳng định: Cái mà tôi cần nhất là Tổ quốc tôi được độc lập; dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên ngôn độc lập, Người tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới rằng: Bằng mọi giá phải giữ vững thành quả cách mạng “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Khi thực dân Pháp âm mưu muốn cướp nước ta một lần nữa thì trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định dứt khoát “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó cũng là tinh thần quật cường “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” bởi với Hồ Chí Minh chỉ có một chân lý đó là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Khi giải quyết được cấp độ thứ nhất thì đây là cơ sở, tiền đề để giải quyết cấp độ thứ hai. Theo Hồ Chí Minh, có độc lập rồi phải lập tức xây dựng nhà nước dân chủ đích thực. Nghĩa là phải xây dựng một nhà nước kiểu mới thật sự của dân, do dân và vì dân. Trong tác phẩm “Dân vận” với bút danh X.Y.Z đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15/10/1949, Người viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Có như vậy mới đem lại tự do, hạnh phúc cho dân vì theo Người “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì”. Phát biểu trong buổi họp đầu tiên của Uỷ ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu giành độc lập. Chúng ta đã giành được rồi...Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Tất nhiên, việc đem lại hạnh phúc, giàu mạnh cho nhân dân không dễ dàng. Bác cho rằng thắng đế quốc, phong kiến còn tương đối dễ nhưng thắng bần cùng, nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn nhiều. Đây là cuộc chiến khó khăn nhất, sâu sắc nhất, gay go nhất, gian khổ nhất nhưng cũng vinh quang nhất. Vì vậy, khi “đã hy sinh làm cách mạng thì nên làm cho đến nơi để khỏi phải hy sinh nhiều lần, để dân chúng được hạnh phúc”. Khi cách mạng thành công thì người cán bộ phải đồng hành cùng nhân dân, phải biết hy sinh, là đầy tớ của nhân dân; phải lo cái lo trước dân và vui cái vui sau dân; việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.

Điều cần lưu ý độc lập ở Hồ Chí Minh là độc lập trong thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và độc lập trong hoà bình. Theo Hồ Chí Minh, độc lập mà không thống nhất thì nền độc lập đó chưa trọn vẹn. Ngày 31/5/1946, Hồ Chủ tịch viết bức thư gửi đồng bào Nam bộ trước lúc Người lên đường sang Pháp có đoạn “Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn. Song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Trả lời báo giới ở Paris năm 1946 Hồ Chủ tịch nói: “Nam bộ là lãnh thổ của Việt Nam. Đó là thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi. Điều đó dựa trên những nguyên nhân về nguồn gốc và chủng tộc, lịch sử và văn hóa...Không ai có quyền chia rẽ và không lực lượng nào có thể chia rẽ Nam bộ khỏi Việt Nam. Không có xứ Nam kỳ mà chỉ có một nước Việt Nam, một lịch sử thống nhất của Việt Nam”. Ngày 21/10/1946, Hồ Chủ tịch về tới Hà Nội. Người tuyên bố rằng “Dân Việt Nam ta đã đủ tư cách độc lập tự do. Ai không thừa nhận ta tự do độc lập thì không được. Bắc, Trung, Nam là đất nước Việt Nam. Chúng ta đều chung một tổ tiên, dòng họ, đều là ruột thịt, anh em. Không ai có thể chia rẽ con một nhà, không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam. Một ngày nào Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi còn ăn không ngon, ngủ không yên”.

Khi các yếu tố trong cấp độ thứ hai như dân chủ, tự do, giàu mạnh, hạnh phúc được thực hiện tốt đến lượt nó tác động trở lại cấp độ thứ nhất làm cho độc lập dân tộc càng được giữ vững, cái bất biến càng trở nên trường tồn, vĩnh hằng. Có độc lập, hoà bình thì tiếp theo phải làm cho nước nhà được giàu mạnh. Dân có giàu, nước có mạnh, trên dưới đoàn kết thống nhất một lòng, nhân dân tuyệt đối tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng thì mới có đủ thực lực giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không bị lệ thuộc trên bất kỳ phương diện nào từ những thế lực cường quyền nào cũng như vững vàng vượt qua những âm mưu, thủ đoạn chống phá từ những lực lượng thù địch trong và ngoài nước.

Trong triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” nội dung cốt lõi là để đảm bảo giữ vững cái bất biến thì có thể thực hiện bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau để cuối cùng vẫn quay về với cái bất biến. Trong những lúc tình thế cách mạng khó khăn nhất thì không được xa rời, vứt bỏ cái bất biến và càng tuyệt đối không đem cái bất biến, cái thuộc về bản chất, có tính nguyên tắc ra mua bán, thương lượng, thoả hiệp. Hoàn cảnh cuộc sống luôn thay đổi, sự nghiệp cách mạng, tình thế cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể luôn đặt ra những yêu cầu mới nên xét về mặt sách lược, phương pháp, bước đi cũng phải linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển, có thể hoà hoãn, nhân nhượng thậm chí chấp nhận những bước lùi nhất thời trong xử trí từng vấn đề cụ thể. Nhưng dù có mềm dẻo, linh hoạt, nhân nhượng hay lùi bước như thế nào đi chăng nữa cũng phải trên nguyên tắc lùi để tiến xa hơn, vạn biến cũng là vì cái bất biến. Điều này đã được Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng tài tình trong giai đoạn cách mạng 1945-1946 thông qua việc ký Hiệp định sơ bộ 06/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Hay như trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biếnđã được Hồ Chí Minh đặt lên vai đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bác nói “Tổng Tư lệnh ra mặt trận “Tướng quân tại ngoại”. Thay mặt Trung ương, Bác giao cho chú toàn quyền”. Người căn dặn “Trận này rất quan trọng. Phải đánh cho thắng, chắc thắng thì mới đánh. Không chắc thắng không đánh”. Chính tư tưởng này là cẩm nang để trên thực tế diễn biến của chiến dịch đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định thay đổi phương châm từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc” làm nên thắng lợi lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang đi vào chiều sâu và đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng trên nhiều lĩnh vực: Kinh tế không ngừng tăng trưởng bền vững, chính trị được giữ vững và ổn định, hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng thế và lực của Việt Nam không ngừng được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện...Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức đối với đất nước không hề giảm đi mà thậm chí còn gia tăng. Đặc biệt, bốn nguy cơ mà Đảng ta xác định có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của dân tộc và chế độ vẫn còn tồn tại. Điều này càng đòi hỏi Đảng ta cần nhận thức sâu sắc hơn và quán triệt triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh. Cái bất biến ở đây là sự kiên định, nhất quán, có tính nguyên tắc trên các nội dung sau:

- Thứ nhất, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Trong xu thế toàn cầu hoá với vô số các mối quan hệ song phương, đa phương đan xen giữa hợp tác và đấu tranh nhưng quan điểm của Đảng ta trong hợp tác quốc tế phải trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hợp tác để phát triển nhưng tuyệt đối không để bị lệ thuộc về kinh tế dẫn đến áp bức về chính trị. Trong tranh chấp chủ quyền biển đảo trước sau như một, Đảng ta và nhân dân ta luôn khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, đó là cái bất biến.

- Thứ hai, phải kiên định nhất nguyên chính trị, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng, đồng thời phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng. Bởi lẽ, Chủ nghĩa Mác-Lênin trong dòng chảy của tư tưởng nhân loại qua mọi thời đại là một học thuyết hoàn bị nhất, cách mạng nhất và khoa học nhất. Trong khi đó Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bởi Chủ nghĩa Mác-Lênin, lại từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Xuất phát từ mục đích, tôn chỉ trên càng làm cho vai trò của Đảng ta không thể bị thay thế bởi bất kỳ một lực lượng đảng phái nào khác. Tuyệt đối không thể đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

- Thứ ba, trong quá trình đổi mới phải đẩy mạnh sản xuất hàng hoá gắn với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có mở rộng sản xuất hàng hoá, thực hiện nền kinh tế thị trường mới tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững nhưng phải đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nét đặc thù và chỉ có như thế mới thể hiện được bản chất ưu việt của chế độ ta.

- Thứ tư, cùng với xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam phải đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng trên tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt thể chế chính trị, sẵn sàng khép lại quá khứ hướng tới tương lai, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Nhưng trong quá trình hội nhập tuyệt đối không bị hoà tan, không tự đánh mất mình, không trở thành cái bóng của người khác; vẫn giữ vững được bản sắc văn hoá, cốt cách của con người, dân tộc Việt Nam.

Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ẩn chứa sự uyên thâm, tinh tế của một nhà hiền triết. Tư tưởng này không chỉ được vận dụng có hiệu quả trong thời kỳ của Hồ Chí Minh mà nó trở thành phương châm hành động, là phương pháp luận, là cẩm nang cho Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và nhất là trong giai đoạn hiện nay./.

Tin khác