Xuân Canh Ngọ 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời! Đến Xuân Quý Mão 2023 đã 93 năm Đảng ta đồng hành cùng dân tộc! Đảng ta ra đời vào mùa Xuân - mùa Xuân là mùa khởi đầu của một năm với biết bao ước mơ, hoài bảo về tương lai tốt đẹp của đất nước, dân tộc! Để có sự kiện Đảng ta ra đời vào ngày 03/02/1930, là cả một thời kỳ thai nghén “đau đẻ” của toàn dân tộc; với biết bao cuộc vùng lên, quật khởi chống ngoại xâm của dân tộc với nhiều khuynh hướng tư tưởng khác nhau, nhưng tất cả các cuộc quật khởi đều bị thực dân, đế quốc dìm trong bể máu, dân tộc ta chìm sâu trong cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước kéo dài suốt 30 năm đầu thế kỷ XX. Vượt lên những hạn chế của các bậc tiền bối đương thời, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, với tấm lòng yêu nước nồng nàn, tình yêu thương dân vô bờ bến, quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Nguyễn Tất Thành đã tìm đến Chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, chuẩn bị mọi điều kiện về đường lối, về cán bộ... và chủ trì thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930. Sự kiện ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa Xuân năm 1930, có ý nghĩa chính trị sâu sắc và là một sự kiện lịch sử quan trọng - chấm dứt khủng hoảng về đường lối cứu nước và lực lượng tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Không ai tưởng rằng sự ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành ngày 05/6/1911 lại gắn liền với vận mệnh của đất nước, dân tộc; nhưng lịch sử đã chứng minh điều đó. Ra đi chỉ đôi bàn tay trắng với tình yêu nước và khát vọng cháy bỏng đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc mình. Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước; hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, năm 1941, Bác về nước cùng với Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những chiến công vĩ đại trong thế kỷ XX. Lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - lấy lại và ấn định tên nước Việt Nam - Dân tộc Việt Nam trên bản đồ thế giới; lãnh đạo Nhân dân ta trường kỳ kháng chiến 9 năm, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy Năm Châu, chấn động địa cầu, giải phóng, đưa miền Bắc tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đầy hy sinh, gian khổ ở miền Nam. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, đánh sụp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, rút quân về nước, ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Paris ngày 27/01/1973, cách nay vừa tròn 50 năm lập lại hoà bình ở Việt Nam. Có thể nói, Hiệp định Paris là một bước ngoặt lịch sử, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự kết hợp chặt chẽ giữa các mặt trận ngoại giao, chính trị, quân sự, kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo ra thế và lực mới, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa phải tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, vừa phải đối mặt với chính sách cấm vận của Mỹ và đồng minh, có những lúc đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng những năm tám mươi và tình hình thế giới vô cùng bất lợi bởi chủ nghĩa xã hội đi vào thế thoái trào và như một cơn địa chấn chính trị thế giới khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã. Nhưng với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta giữ vững nguyên tắc, kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến hành đường lối đổi mới, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đại hội XIII của Đảng ta đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như hôm nay”. Thành tựu mà đất nước ta, Nhân dân ta đạt được trong hơn 90 năm qua, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thành tựu hơn 35 năm đổi mới đã đưa đất nước ta bước nhanh vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Dự báo tình hình thế giới sẽ diễn biến phức tạp hơn, có cả thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen nhau; sự cạnh tranh giữa các quốc gia trên thế giới để định hình vị trí của mình đến giữa thế kỷ XXI. Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài xu thế đó. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cụ thể chia làm 3 giai đoạn: Đến 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến giữa thế kỷ trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Bốn nguy cơ mà Đảng ta nhận diện từ Đại hội VII đến nay vẫn còn tồn tại, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ về tệ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nguy cơ về “diễn biến hòa bình, có mặt gay gắt hơn; mối đe dọa về độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước, nhất là trên biển Đông bị thách thức nghiêm trọng; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng quyết liệt hơn. Trước tình hình trên đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ để lãnh đạo phát triển bền vững đất nước trong chặng đường mới.
Theo đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải đồng bộ, toàn diện, quyết liệt trên tất cả các mặt. Về chính trị, luôn kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng, kiên định các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Không ai được ngã nghiêng, dao động”. Nâng cao năng lực dự báo và ứng phó với tình hình; hoạch định chủ trương, đường lối phải bám sát thực tiễn, coi trọng khâu tổ chức thực hiện, không để chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường công tác xây dựng Đảng trên lĩnh vực tư tưởng. Chú trọng giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu dài; làm cho tư tưởng tiến bộ, tích cực lan tỏa mạnh trong toàn xã hội, đẩy lùi tư tưởng tiêu cực; nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu của công tác tư tưởng. Nâng cao hiệu quả giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng; tuyên truyền, học tập, giáo dục chủ trương, đường lối của Đảng; nâng tầm lý luận của Đảng trước yêu cầu mới đi đôi với nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức, tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII, Kết luận số 21-KL/TW - Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4, khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với nhiệm vụ khắc phục tư tưởng đặt nặng lợi ích riêng tư trong công việc; kiên quyết, kiên trì, đẩy mạnh phòng chống và xử lý nghiêm tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Chú trọng củng cố và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và xây dựng đôi ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Trong đó, tập trung xây dựng đội ngũ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đảm bảo sự chuyển tiếp, kế thừa giữa các thế hệ cán bộ, không để hụt hẫng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ đối với công tác kiểm tra, giám sát. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng, những vấn đề ở các cơ quan, đơn vị, ngành mà dư luận bức xúc, quan tâm; xử lý nghiêm, kịp thời tổ chức Đảng và đảng viên vi phạm một cách nghiêm minh, siết chặt kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Trong cơ chế thị trường, cần quan tâm trong việc xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với dân - dựa vào dân để xây dựng Đảng. Tiếp tục đổi mới phương thức và nội dung công tác vận động quần chúng của hệ thống chính trị; phát huy vai trò của Nhân dân trong tự phê bình, góp ý xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Là người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là lúc sự nghiệp cách mạng bước sang giai đoạn mới, cần tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng thật sự trong sạch vững mạnh - để Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh” ngang tầm nhiệm vụ, lãnh đạo đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững trong thời gian tới.
CVD