Những ngày cuối năm nay, đọc lại Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tâm khảm mỗi người Việt Nam chúng ta khắc sâu tinh thần, ý thức độc lập dân tộc.
1. Ý thức độc lập dân tộc trong lịch sử Việt Nam
Ý thức độc lập dân tộc, tinh thần dân tộc, sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam được kết tinh, hình thành và thể hiện từ các yếu tố cơ bản:
Trước hết, ý thức độc lập dân tộc, tinh thần dân tộc, sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam được kết tinh, hình thành từ truyền thống hào hùng trong dựng nước, trong chống ngoại xâm của dân tộc được hun đúc trong suốt tiến trình lịch sử thực hiện nhiệm vụ chiến lược của dân tộc mình đi từ truyền thuyết đến hiện thực hình thành nên nền văn hiến Việt Nam với những giá trị văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc độc đáo nhất được tựu trung ở tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, tính văn hóa, nhân văn của mỗi con người Việt Nam. Đó chính là sức mạnh của văn hóa, văn minh dân tộc, của tinh thần, ý thức mỗi con người Việt Nam luôn hướng đến Chân – Thiện – Mỹ với tư cách ba cột trụ vĩnh hằng của đời sống xã hội.
Hai là, ý thức độc lập dân tộc, tinh thần dân tộc, sức mạnh toàn dân tộc được kết tinh, hình thành và phát triển cao độ từ sự áp bức, bóc lột, dã tâm thâm độc của các thế lực ngoại xâm.
Ba là, ý thức độc lập dân tộc, tinh thần dân tộc, sức mạnh toàn dân tộc được kết tinh, hình thành và phát triển cao độ từ khi có Đảng lãnh đạo với đường lối đúng đắn và sự đồng thuận của toàn dân tộc biểu hiện “ý Đảng hợp lòng dân, dân tin Đảng”.
Bốn là, ý thức độc lập dân tộc, tinh thần dân tộc, sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam được thể hiện ở khối đại đoàn kết toàn dân tộc và được tập hợp thông qua các hình thức mặt trận do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đặc biệt là Mặt trận Việt Minh (thành lập từ tháng 5-1941).
Trước thất bại liên tục của các cuộc khởi nghĩa từ sau Công nguyên, những tưởng dân tộc Việt Nam không thể tiếp tục đứng lên giành lại độc lập cho mình, nhưng kỳ lạ thay, vào năm 938, truyền thống văn hóa, văn hiến lại trỗi dậy, với tinh thần dân tộc quật cường, ý thức độc lập dân tộc sâu sắc mở đầu bằng chiến thắng vang vội trên sông Bạch Đằng. Lịch sử mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ lâu dài cho dân tộc.
Kháng chiến chống Tống lần thứ nhất thắng lợi, bài thơ thần của Lý Thường Kiệt như một bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất của dân tộc đã đánh dấu kỷ nguyên độc lập dân tộc được xác lập: Sông núi nước Nam vua Nam ở; Rành rành đã định bởi sách trời; Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm; Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời. Ý thức độc lập dân tộc của dân tộc ta luôn luôn kiên định và nhất quán.
Cuộc kháng chiến chống lại nhà Minh thế kỷ thứ XV thắng lợi, Bình ngô Đại cáo của Nguyễn Trải như một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc đã đánh dấu kỷ nguyên độc lập dân tộc được xác lập: Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông, bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc, Nam cũng khác, Trãi Triệu, Đinh, Lý, Trần đã bao đời gây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh mỗi bên hùng cứ một phương... Ý thức độc lập dân tộc của dân tộc ta luôn luôn kiên định và nhất quán.
Mùa xuân tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện ra đời đã lãnh đạo toàn dân tộc ta đấu tranh giành độc lập dân tộc trong thời kỳ mới.
Năm 1945 thời cơ cách mạng đã đến như Bác khẳng định: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Đó cũng là niềm tin sắt đá của Người khi phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám (1945) với quyết tâm “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập dân tộc”. Với tinh thần quyết tâm và ý chí độc lập dân tộc sôi sục chúng ta tiến hành tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng 8/1945 thành công nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra đời, nền độc lập dân tộc được thực hiện.
Như vậy, với quyết tâm sắt đá ấy của toàn dân tộc, nên 15 tuổi Đảng ta và Bác Hồ đã lãnh đạo dân tộc ta qua ba cuộc diễn tập với ba cao trào cách mạng để cuối cùng bằng cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công Tuyên ngôn độc lập ra đời khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á mở ra kỷ nguyên mới cho độc lập dân tộc của Việt Nam: Độc lập – Tự do – Hạnh phúc; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ý thức độc lập dân tộc của dân tộc ta luôn luôn kiên định và nhất quán.
2. Độc lập dân tộc của dân tộc Việt Nam là một nền độc lập dân tộc thực sự và là sản phẩm tất yếu của quá trình đấu tranh đầy gian khổ của nhân dân ta.
- Sau khi khẳng định tính pháp lý của bản Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 là không thể phủ nhận được, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Bác đã mượn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 đó là những cơ sở pháp lý không thể phủ nhận được. Nhưng thực tế lịch sử lại trớ trêu thay: Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẵn với nhân đạo và chính nghĩa.
- Bác đã tố cáo bản chất dã man của thực dân Pháp cai trị ở Việt Nam trong tuyên ngôn một cách không thể chối cải được:
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở trung, nam, bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam được Bác khẳng định trong tuyên ngôn một cách hết sức ngắn gọn: Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Tính kiên định độc lập dân tộc của dân tộc Việt Nam được Bác tuyên bố dứt khoát: Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
3. Kỷ nguyên mới của độc lập dân tộc Việt Nam
Trước hết là Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Đây chính là sự vận dụng chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn một cách sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tế tình hình của cách mạng Việt Nam.
Nếu như nhà cách mạng Tôn Trung Sơn cho rằng mục đích cuối cùng của cách mạng là làm cho Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc thì Bác đã cụ thể hóa thành tiêu ngữ của quốc gia, điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình cách mạng Việt Nam, nhu cầu và khát vọng không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn là xu hướng phát tiển và là chân lý của mọi thời đại.
Không phải bây giờ, ở Việt Nam mà là từ xa xưa ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Hai là Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ đặc điểm lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đang khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước, con đường đem lại độc lập dân tộc cho dân tộc Việt Nam và đã tìm đến con đường giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011, tr.30.)
Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(Hồ Chí Minh, Toàn tập: t. 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.563).
Ý thức độc lập dân tộc là đường lối chiến lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn là động lực trực tiếp trong xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Phát huy ý thức độc lập dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, song Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng, đó là: Củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân. Trên tinh thần đó, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy cao độ, đó chính là động lực to lớn trong xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Một là, có phát huy cao độ ý thức độc lập dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới từng bước thực hiện cho bằng được mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với những đặc trưng cơ bản: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Hai là, có phát huy cao độ sức mạnh ý thức độc lập dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới tiếp tục thực hiện thắng lợi tám phương hướng, giải pháp: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Ba là, có phát huy cao độ ý thức độc lập dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới đồng thời giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; Quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; Quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; Quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Bốn là, có phát huy cao độ ý thức độc lập dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới từng bước xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân mới bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành công chủ nghĩa xã hội trong bất cứ tình huống nào.
Với việc phát huy cao độ ý thức độc lập dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mục tiêu cụ thể đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Bằng quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của nhân dân khi ý Đảng hợp lòng dân, dân tin Đảng, thì việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chớp lấy thời cơ và vận hội, đẩy lùi nguy cơ và thách thức, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại./.
ThS. Nguyễn Thành Phương
Trưởng khoa Lý luận cơ sở