Tiềm năng phát triển Hợp tác xã thuỷ sản theo hướng bền vững ở huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre

Hồ Thị Thùy Dung

Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở

Theo Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Nghị quyết 04-NQ/TU ngày 29 tháng 01 năm 2021 của Tỉnh ủy Bến Tre, phát triển Bến Tre về hướng Đông giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn đến năm 2030, Ba Tri được xác định là một trong ba huyện biển có vai trò trọng tâm trong phát triển về hướng Đông của tỉnh. Huyện ủy Ba Tri xác định nhiệm vụ trọng tâm là khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh của biển, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Định hướng phát triển kinh tế biển thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với các thế mạnh như: nuôi trồng, khai thác thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá; phát triển không gian kinh tế biển; phát triển du lịch biển kết hợp với du lịch văn hóa, di tích… đặc biệt là phát huy tốt các tiềm năng phát triển hợp tác xã thuỷ sản theo hướng bền vững.

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 Thông tư 09/2017/TT-BNNPTNT: “Hợp tác xã thủy sản là hợp tác xã có hoạt động nuôi trồng thuỷ sản (nuôi trồng thuỷ sản biển, nội địa; sản xuất giống thuỷ sản); khai thác thủy sản (khai thác thủy sản biển và nội địa, bao gồm cả bảo quản thuỷ sản ngay trên tàu đánh cá)” [2]. Trong phạm vi bài viết này, tác giả nghiên cứu về các hợp tác xã nghêu trên địa bàn huyện Ba Tri, hoạt động chính là quản lý khai thác nguồn lợi tự nhiên con nghêu.

Khi bàn về khái niệm phát triển bền vững, có rất nhiều quan niệm khác nhau, nhìn chung các nhà khoa học đều thống nhất khái niệm về phát triển bền vững của UNEP (Chương trình Môi trường Liên hợp quốc), theo đó phát triển bền vững là:“Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai” [3]. “Đó là sự phát triển luôn giữ được sự kết hợp cân đối, hài hòa trên cả 3 trụ cột phát triển về kinh tế, về xã hội và về sinh thái/tài nguyên, môi trường” [4] . Theo lý thuyết trên, yêu cầu của một hợp tác xã thuỷ sản phát triển theo hướng bền vững bao gồm: Hợp tác xã thuỷ sản thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh đảm bảo góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm thường xuyên cho nguười lao động ở địa phương; Tạo được sự đồng thuận xã hội trong khai thác hiệu quả, duy trì bảo vệ tốt nguồn lợi thuỷ sản trong hiện tại và trong tương lai; Thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái.

1. Tiềm năng phát triển hợp tác xã nghêu theo hướng bền vững 

Hiện nay trên địa bàn huyện Ba Tri có 03 hợp tác xã thuỷ sản, trong đó 01 hợp tác xã vừa nêu nuôi nghêu tự nhiên vừa mua nghêu giống thả nuôi, đó là: Hợp tác xã thủy sản Bảo Thuận; 02 hợp tác xã nuôi nghêu tự nhiên, đó là Hợp tác xã thủy sản An Thủy (thị trấn Tiệm Tôm) và Hợp tác xã thủy sản Tân Thuỷ. Hoạt động chính của các hợp tác xã thuỷ sản này là quản lý khai thác nguồn lợi tự nhiên (con nghêu) tạo việc làm, tăng thu nhập cho các thành viên. Về tiềm năng phát triển hợp tác xã thuỷ sản theo hướng bền vững ở địa bàn huyện, có thể kể đến các tiềm năng sau:

Thứ nhất, về vị trí địa lý: 

Ba Tri là một trong ba huyện ven biển của Bến Tre, diện tích đất tự nhiên khoảng 35.556 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 20.201 ha [5] . Địa giới huyện Ba Tri nằm ở phần phía Đông cù lao Bảo, phía Bắc giáp với huyện Bình Đại, có chung ranh giới con sông Ba Lai, phía Nam giáp huyện Thạnh Phú, có chung ranh giới con sông Hàm Luông, phía Tây giáp huyện Giồng Trôm, phía Đông giáp biển chiều dài bờ biển 12km.

Theo Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh ủy, Ba Tri được xác định là một trong ba huyện biển có vai trò trọng tâm trong phát triển về hướng Đông của tỉnh, đặc biệt là có lợi thế để phát triển mối liên kết vùng giữa những huyện biển Bình Đại, Thạnh Phú với các tỉnh ven biển dọc theo tuyến đường động lực ven biển từ Thành phố Hồ Chí Minh - Tiền Giang - Bến Tre - Trà Vinh. Tuyến đường này được đầu tư trong giai đoạn 2025-2030 sẽ tạo động lực phát triển, trong đó Ba Tri có lợi thế phát triển kinh tế biển, năng lượng, đô thị, du lịch nghỉ dưỡng, khu công nghiệp, logistics… đồng thời hình thành chuỗi giá trị liên kết giữa các vùng nuôi trồng thủy sản ở các cù lao, rừng ngập mặn và du lịch sinh thái.

Thứ hai, về điều kiện tự nhiên: 

Với bờ biển thoải, dài và nông, hàng năm được bồi đắp tự nhiên dọc theo bờ biển, có nhiều loài sinh vật biển tự nhiên cư trú. Đặc biệt, Ba Tri có chung ranh giới sông Ba Lai, sông Hàm Luông, dòng triều ra vào các cửa sông trên tạo thành hàng trăm héc ta đất bãi bồi, rất thuận lợi để cho con nghêu sinh sống và phát triển. Chính vì vậy, trữ lượng nghêu ở hầu hết các hợp tác xã trên địa bàn huyện Ba Tri là rất lớn, với trữ lượng từ 32.000 - 40.000 tấn/năm, sản lượng thu hoạch là 20.000 tấn/năm. Bên cạnh đó, theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, chất lượng con nghêu ở Bến Tre nói chung và ở Ba Tri nói riêng là khá tốt, thịt nghêu trắng, thơm ngon và bổ dưỡng. Nghề nuôi và khai thác nghêu ở tỉnh Bến Tre đã được Quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới (WWF), Hội đồng Bảo tồn biển quốc tế (MSC) [6] cấp chứng nhận MSC lần đầu vào ngày 10 tháng 11 năm 2009, được duy trì công nhận lần hai vào năm 2016, lần thứ ba vào năm 2024 (có giá trị từ ngày 23 tháng 5 năm 2024 đến ngày 22 tháng 5 năm 2029). Đây là thương hiệu quốc tế đầu tiên của ngành ngư nghiệp Đông Nam Á, thương hiệu này không chỉ giúp Ba Tri nói riêng, tỉnh Bến Tre nói chung bảo tồn nguồn tài nguyên biển, mà còn giúp cho nghêu Việt Nam hội nhập mạnh mẽ trên thị trường thế giới.

Thứ ba, về dân số, lao động: 

Theo thống kê, Ba Tri có dân số trung bình vào khoảng 187.280 người, chiếm 14,8% dân số toàn tỉnh với 52.900 hộ, chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn với khoảng 176.350 người. Đa số người dân huyện Ba Tri hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và khai thác hải sản, chiếm gần 59% tổng số hộ.

Lực lượng lao động trong các hợp tác xã thuỷ sản nghêu được phân bố dựa trên sản lượng ước tính và giá trị hợp đồng để xác định qui mô diện tích thu hoạch. Người lao động có nhiều kinh nghiệm trong quá trình khai thác, con nghêu được khai thác bằng tay, hoặc loại cào nhỏ bằng sắt có túi lưới để lựa chọn đúng con nghêu có kích cỡ khai thác, không khai thác nghêu non, nghêu cám, duy trì tỷ lệ 20% tổng sản lượng nghêu được giữ lại trên bãi. Trong quá trình khai thác, nghêu bố mẹ sẽ được bổ sung để duy trì nguồn lợi lâu dài và bảo đảm giữ gìn vệ sinh môi trường.

Bên cạnh đó, những cán bộ quản lý thủy sản của địa phương và cán bộ hợp tác xã nghêu trên địa bàn huyện rất có tâm huyết, có tư duy trong quản lý nguồn lợi thủy sản của địa phương. Lực lượng quản lý được đào tạo bài bản, tập huấn thường xuyên nên công tác điều hành và quản lý ở các hợp tác xã khá tốt góp phần thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính, tăng thu nhập cho người lao động.

Khi nghiên cứu về tiềm năng phát triển hợp tác xã thuỷ sản theo hướng bền vững ở Ba Tri, tác giả còn nhận thấy, một trong những yếu tố quan trọng để huyện Ba Tri phát huy tốt tiềm năng này chính là nhờ vào tầm nhìn, định hướng phát triển kinh tế biển đúng đắn của Đảng bộ, chính quyền địa phương và sự đồng thuận của nhân dân. Những chủ trương, chính sách đúng đắn về phát triển kinh tế biển, đặc biệt là phát triển các hợp tác xã nghêu theo hướng bền vững đã được cụ thể hoá trong các nghị quyết, quy hoạch phát triển của Đảng bộ huyện, của xã và của từng hợp tác xã. Đồng thời, người dân địa phương là đối tượng thụ hưởng của các chủ trương, chính sách này luôn đồng tình, ủng hộ chính quyền địa phương trong khai thác và bảo vệ nguồn lợi con nghêu nhằm mục đích phát triển bền vững.

2. Thực trạng khai thác tiềm năng của các hợp tác xã nghêu trên địa bàn huyện Ba Tri

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre, hiện nay toàn tỉnh có diện tích nghêu hơn 2.850 ha; trong đó, nghêu thương phẩm là 2.248 ha, diện tích nghêu giống hơn 580 ha. Xét về tiềm năng phát triển diện tích nghêu ở Bến Tre đạt 15.000 ha; trong đó, diện tích có thể phát triển là 7.164 ha [7].

Diện tích nghêu trên được xác lập bởi 07 hợp tác xã khai thác nghêu (Hợp tác xã thủy sản Đồng Tâm, Rạng Đông huyện Bình Đại; Hợp tác xã thuỷ sản An Thuỷ, Tân Thuỷ, Bảo Thuận huyện Ba Tri; hợp tác xã thuỷ sản Thạnh Lợi, Bình Minh huyện Thạnh Phú) và các hộ dân nuôi nghêu với gần 20.000 thành viên, tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động tại địa phương, góp phần tăng thu nhập ổn định cho người dân ven biển [8].

Trên địa bàn huyện Ba Tri, các hợp tác xã thuỷ sản khai thác, quản lý nguồn lợi thuỷ sản con nghêu đã khai thác tốt các tiềm năng để phục vụ cho mục đích phát triển bền vững, trong đó điển hình nhất là hợp tác xã thuỷ sản An Thuỷ (thị trấn Tiệm Tôm). Ngày 11 tháng 4 năm 2024, hợp tác xã Thủy sản An Thủy đã vinh dự nhận giải thưởng Ngôi sao hợp tác xã Việt Nam năm 2024 “CoopStar Awards 2024” [9].

 

Ảnh: Quang cảnh thu hoạch nghêu của Hợp tác xã thủy sản An Thủy - Nguồn: Hợp tác xã cung cấp.

Hợp tác xã thủy sản An Thủy thành lập ngày 24 tháng 6 năm 2004, với hoạt động chính là quản lý khai thác nguồn lợi tự nhiên (con nghêu) tạo việc làm, tăng thu nhập thành viên. Hợp tác xã Thủy sản An Thủy hiện có 4.719 thành viên, tổng vốn hoạt động là 28,165 tỷ đồng. Năm 2023 hợp tác xã thực hiện đạt 183% kế hoạch đề ra, doanh thu đạt 20,185 tỷ đồng, lợi nhuận 9,1 tỷ đồng, giải quyết việc làm thường xuyên cho 42 lao động và không thường xuyên cho 300 lao động tại địa phương (công thuê khai thác nghêu bình quân 5,1 triệu đồng/người/tháng) [10].

Tuy nhiên khi nghiên cứu các hợp tác xã nghêu trên địa bàn huyện Ba Tri, tác giả nhận thấy có một số vấn đề còn tồn tại, cần phải giải quyết để khai thác tốt hơn nữa tiềm năng phát triển bền vững:

Thứ nhất, do đặc thù của hoạt động của các hợp tác xã nghêu là quản lý khai thác nguồn lợi tự nhiên con nghêu nên phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên. Những năm gần đây do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu làm thay đổi dòng chảy tác động sân bãi nhiều khu vực bị sạt lở, bờ biển bị bồi lắng lầy làm mất nhiều diện tích nuôi nghêu. Bên cạnh đó, độ mặn của nước biển tăng cao nên nghêu bị chết nhiều, nguồn nghêu giống tự nhiên sụt giảm chính vì vậy trữ lượng và năng suất khai thác nghêu của các hợp tác xã thường không ổn định.

Thứ hai, do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên nên nguồn giống con nghêu tự nhiên không còn nhiều, hợp tác xã phải bỏ vốn đầu tư mua nghêu giống từ các hợp tác xã khác (chủ yếu mua từ hợp tác xã nghêu Rạng Đông, huyện Bình Đại), tuy nhiên phần lớn các hợp tác xã bị hạn chế về mặt kinh phí nên việc mua nghêu giống thả nuôi chưa đạt theo phương án đặt ra. Còn nhiều diện tích bãi bồi chưa được khai thác do hợp tác xã thiếu kinh phí mua nghêu giống, không kêu gọi được nhà đầu tư tham gia, gây lãng phí nguồn tài nguyên đất bãi bồi của địa phương.

Thứ ba, còn xảy ra tình trạng khan hiếm lao động cục bộ trong thời gian vào cao điểm thu hoạch. Do chưa sắp xếp phân bổ hợp lý lao động theo sản lượng ước tính và hợp đồng. Thứ tư, công tác quản lý của một số hợp tác xã đôi lúc còn chưa phát huy hiệu quả do nguồn nhân sự chưa đáp ứng yêu cầu, một số cán bộ chưa được đào tạo bài bản. Công tác phối hợp với chính quyền địa phương, lực lượng Công an, Quân sự, Bộ đội Biên phòng để tuần tra, bảo vệ bãi nghêu còn chưa thường xuyên nên tình trạng mất trộm nghêu vẫn còn diễn ra, gây thất thoát cho hợp tác xã.

3. Giải phát khai thác tiềm năng phát triển hợp tác xã nghêu theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Ba Tri

Qua nghiên cứu thực tế tại các hợp tác xã nghêu trên địa bàn huyện Ba Tri, nhận thấy được những tiềm năng cũng như những thuận lợi và khó khăn còn tồn tại của các hợp tác xã này trong xu hướng phát triển bền vững. Kết hợp với ba nguyên tắc để phát triển hợp tác xã theo hướng bền vững: 

Thứ nhất, khai thác nghêu không gây ra tình trạng khai thác quá mức hoặc cạn kiệt quần thể đối tượng khác; Thứ hai, đảm bảo duy trì cấu trúc, sức sản xuất, chức năng và đa dạng của hệ sinh thái; Thứ ba, hệ thống quản lý hiệu quả tuân thủ pháp luật. Tác giả mạnh dạn đề xuất các giải pháp có thể góp phần khai thác tốt tiềm năng phát triển các hợp tác xã nghêu trên địa bàn huyện như sau: 

Một là, các hợp tác xã nghêu cần có kế hoạch nghiên cứu, đầu tư nguồn lực để sản xuất nguồn nghêu giống. Nếu sản xuất được nguồn nghêu giống, các hợp tác xã sẽ giảm bớt chi phí mua nghêu giống, lấp đầy được diện tích thả nuôi còn bỏ hoang do không đủ kinh phí để khai thác. Mặt khác phấn đấu trở thành đơn vị cung cấp nghêu giống cho địa phương, cho tỉnh và cả nước góp phần tăng thu nhập đáng kể cho hợp tác xã. Bên cạnh đó, cần đầu tư khoa học kỹ thuật để nghiên cứu lai tạo con nghêu giống thích nghi tốt với điều kiện thời thiết khắc nghiệt do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Quan tâm hơn nữa công tác quản lý, chăm sóc với quyết tâm cao giữ gìn nguồn tài nguyên, đảm bảo trữ lượng nghêu cho hợp tác xã. 

Thứ hai, cần có kế hoạch đào tạo, tập huấn kinh nghiệm cho lao động khai thác nghêu theo quy định khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản bền vững: Quán triệt thực hiện nguyên tắc chọn đúng con nghêu có kích cỡ phù hợp, chỉ được khai thác nghêu giống khi đạt kích thước theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành. Không khai thác nghêu non, nghêu cám, duy trì tỷ lệ 20% tổng sản lượng nghêu được giữ lại trên bãi. Trong quá trình khai thác, nghêu bố mẹ phải được được bổ sung để duy trì nguồn lợi lâu dài và bảo đảm giữ gìn vệ sinh môi trường. Sử dụng dụng cụ khai thác thân thiện với môi trường, không gây hủy diệt, tác động đến hệ sinh thái. Quá trình khai thác phải ghi chép nhật ký và lưu trữ hồ sơ đầy đủ. Bên cạnh đó cần có kế hoạch phân chia thời gian khai thác để tránh tình trạng khan hiếm lao động cục bộ khi vào cao điểm thu hoạch.

Thứ ba, thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn cho cán bộ quản lý thuỷ sản và cán bộ hợp tác xã nhằm nâng chất hơn nữa công tác quản lý, khai thác. Phối hợp với các tổ chức dịch vụ du lịch của địa phương hình thành điểm du lịch trải nghiệm (du khách được tham gia, trải nghiệm hoạt động khai thác nghêu của hợp tác xã). Phát triển mô hình nuôi nghêu trong hồ.

Thứ tư, phối hợp tốt với lực lượng Công an, Quân sự, Bộ đội Biên phòng tích cực tuần tra, bảo vệ bãi nghêu, chấm dứt tình trạng khai thác nghêu trộm. Kết hợp với chính quyền địa phương, các phòng chuyên môn ở huyện tổ chức các buổi mít ting, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của nhân dân trong quản lý, bảo vệ, khai thác bền vững nguồn lợi con nghêu ở địa phương. 

Nguồn lợi thuỷ sản con nghêu tự nhiên là nguồn tài nguyên có hạn, theo xu hướng phát triển bền vững thì nhiệm vụ của các chủ thể quản lý, khai thác phải làm sao để biến từ nguồn tài nguyên này từ có hạn thành vô hạn. Để thực hiện được nhiệm vụ trên thì các hợp tác xã, chính quyền và nhân dân địa phương cùng chung sức thực hiện các giải pháp như: Tạo nguồn nghêu giống; tập huấn cho cán bộ, người lao động; tăng cường phối hợp tuần tra bảo vệ và nâng cao ý thức của người dân trong quản lý, khai thác và bảo vệ nguồn lợi con nghêu. Có như vậy huyện Ba Tri mới khai thác tốt được các tiềm năng phát triển hợp tác xã thuỷ sản (quản lý, khai thác nguồn lợi tự nhiên con nghêu) theo hướng bền vững, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập cho người dân trên địa bàn huyện.

==================================

[1] Tháng hành động vì hợp tác xã năm 2024 có chủ đề “Vì sự phát triển bền vững của hợp tác xã” với nhiều hoạt động, sự kiện được tổ chức cao điểm từ ngày 29/3-29/4/2024 nhằm góp phần phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; giới thiệu, quảng bá, kết nối giữa các tổ chức kinh tế tập thể và thành viên với các thành phần kinh tế khác; nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm, chủ động, đổi mới, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, viên chức, quản lý, thành viên, người lao động trong các tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, thành viên liên kết.

[2] Khoản 4 Điều 3 Thông tư 09/2017/TT-BNNPTNT, thông tư hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành, 2017.

[3] UNEP: Hướng tới Nền kinh tế xanh - lộ trình cho phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, 2011, tr.107.

[3] Rogall G 2009: Kinh tế học bền vững - Lý thuyết kinh tế và thực tế của phát triển bền vững, Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 2011, tr.45-50.

[5] Cục Thống kê tỉnh Bến Tre: Niên giám thống kê 2022, Bến Tre.2023, tr.19.

[6] Chứng nhận MSC do Hội đồng Bảo tồn biển quốc tế cấp cho các ngành nuôi trồng, khai thác thủy sản của các nước đáp ứng được những yêu cầu về bảo tồn nguồn tài nguyên, giữ gìn được các cộng đồng của địa phương và tác động tích cực đến mục tiêu tối thượng của kinh doanh.

[7] https://baochinhphu.vn/ngheu-ben-tre-tiep-tuc-duoc-cong-nhan-dat-tieu-chuan-msc

[18https://thuysanvietnam.com.vn/ngheu-ben-tre-phat-trien-ben-vung-de-hoi-nhap

[9]https://baodongkhoi.vn/hop-tac-xa-thuy-san-an-thuy-dat-giai-thuong-ngoi-sao-hop-tac-xa-viet-nam-nam-2024 

Giải thưởng này nhằm tôn vinh các hợp tác xã là thành viên và tích cực tham gia các hoạt động của Liên minh hợp tác xã; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính, chế độ báo cáo, thông tin theo quy định; không thua lỗ; không có nợ xấu. Công tác hoạch toán kế toán, thống kê đúng theo quy định hiện hành của Nhà nước. Tích cực giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; hỗ trợ kinh tế hộ phát triển. Đầu tư, mở rộng quy mô, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, sáng kiến cải tiến kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Được công nhận là hợp tác xã điển hình tiên tiến cấp tỉnh, thành phố 3 năm liên tục và có ít nhất 1 lần được tặng bằng khen của UBND cấp hoặc Liên minh hợp tác xã Việt Nam, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương trở lên.

[10]  Hợp tác xã thuỷ sản An Thuỷ: Báo cáo Tổng kết hoạt động của Hợp tác xã và hoạt động của Hội đồng quản trị năm 2023 và phương hướng nhiệm vụ 2024.

CHUYÊN ĐỀ

hcm

Thư viện ảnh