Thành tựu của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nguyễn Thị Ninh
Khoa Xây dựng Đảng
 

Ngay từ trong các văn kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thư gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc (12/1946), đã long trọng tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Đồng thời, Người khẳng định: “Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”. Song, trong hoàn cảnh của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Việt Nam không có điều kiện để thực hiện công cuộc hội nhập quốc tế theo tư tưởng trên. Nhưng đó đã là tư tưởng quan trọng đặt cơ sở cho sự hình thành chủ trương, đường lối hội nhập quốc tế của nước ta sau này.

Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi bắt đầu đổi mới, tư duy về hội nhập quốc tế dần phát triển, được triển khai trong thực tiễn và đạt những thành tựu nhất định trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta, mặc dù lúc đó chưa đề cập đến khái niệm "hội nhập" nhưng Đại hội đã nhận định "đóng cửa hay khép kín nền kinh tế nội địa sẽ là nguy cơ tụt hậu". Từ đó, Đại hội chủ trương "tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ thuật", tham gia rộng rãi vào sự phân công hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi.

Có thể nói, nhận thức của Đảng ta về tình hình mới và việc đề ra chủ trương trên, tư duy hội nhập quốc tế đã bắt đầu hình thành. Tư duy này được củng cố thêm bằng quyết định của Đại hội Đảng lần thứ VII "thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”.

Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, khái niệm "hội nhập" được chính thức đề cập cùng với chủ trương "xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới" hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực.

Sau khi đã hội nhập ở hai cấp độ (khu vực và liên khu vực), Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đề ra chủ trương "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững" và tháng 11/2001 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07-NQ/TW "Về hội nhập kinh tế quốc tế". Việc triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW đã phản ánh một nấc thang cao hơn trong nhận thức và tư duy về hội nhập quốc tế của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

Với những thành công đạt được trong việc triển khai Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX), Đại hội khóa X tiếp tục khẳng định "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế", đồng thời "mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác", nhấn mạnh chủ động và tích cực hội nhập kinh tế, còn đối với các lĩnh vực khác chỉ mới chủ trương mở rộng hợp tác. Từ đây, Việt Nam đã hội nhập kinh tế ở cấp độ toàn cầu, hợp tác văn hóa - xã hội đã được tăng cường, hợp tác an ninh quốc phòng đã được xác lập và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ.

Đến Đại hội XI (2011) khi quan hệ của nước ta với cộng đồng thế giới đã ngày càng mở rộng, Đảng ta xác định “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Chủ trương hội nhập quốc tế đã được thể chế hóa bằng Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị ngày 10/4/2013. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực tạo cho chúng ta khả năng tận dụng được sự tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa hội nhập trong từng lĩnh vực. Do đó, chúng ta sẽ có cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tri thức tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước khẳng định vai trò và vị trí trong nền kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Điều này cho thấy tinh thần vừa sáng tạo, vừa cẩn trọng, đi từng bước vững chắc trong đề xuất chủ trương cũng như trong hành động thực tiễn thắm đượm bản sắc Việt Nam, đồng thời thể hiện cao quyết tâm hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.

Chúng ta đang triển khai đồng thời đàm phán 6 khuôn khổ thương mại tự do lớn là đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), đối tác kinh tế toàn diện khu vực Đông Á (RCEP), các hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc, EU, khu vực mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) và Liên minh Thuế quan Nga – Belarus – Kazakhstan.

Chúng ta đã xác lập quan hệ ngoại giao với 180 trong 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, quan hệ kinh tế thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam trở thành thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế, có 98 cơ  quan đại diện các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp năm châu lục trên thế giới. Thế và lực của đất nước ngày càng vững mạnh. Vai trò và vị thế của đất nước trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, Việt Nam cũng đang triển khai một cách khẩn trương và có hiệu quả chủ trương làm sâu sắc quan hệ với các đối tác quan trọng. Hiện nay, chúng ta đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước (Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Italia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Pháp). Việt Nam và Hoa Kỳ đã xác lập quan hệ đối tác toàn diện, tạo nền tảng cho những bước phát triển mới trong quan hệ song phương phục vụ tốt hơn lợi ích hai nước, góp phần cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.

Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Chúng ta tiếp tục tham gia một cách chủ động, tích cực, có trách nhiệm vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, cùng các nước thành viên xác định những định hướng lớn cho Hiệp hội giai đoạn sau khi thành lập Cộng đồng vào năm 2015, thúc đẩy hợp tác nội khối, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình.

Việt Nam và các nước ASEAN cũng đang nỗ lực cùng Trung Quốc hướng tới một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, kiểm soát các tranh chấp, góp phần xây dựng lòng tin và củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược ASEAN – Trung Quốc.

Chúng ta đấu tranh kiên quyết với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, tạo diễn biến hòa bình, chuyển hóa chế độ, gây bất ổn định đất nước. Bên cạnh đó, chúng ta chủ động tăng cường trao đổi, đối thoại trên tinh thần xây dựng với các nước, các tổ chức phi chính phủ về các thành tựu phát triển, bảo vệ quyền con người và quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam nhằm tăng cường hiểu biết và hợp tác với các nước, các đối tác quan trọng.

Việt Nam không ngừng tăng cường tham gia toàn diện, sâu rộng trong khuôn khổ các diễn đàn đa phương. Lần thứ hai, Việt Nam đã chính thức ứng cử làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2020-2021), đăng cai tổ chức Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới IPU lần thứ 132 (năm 2015) và cũng lần thứ hai đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC (năm 2017). Mới đây nước ta đã được bầu vào Hội đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO và lần đầu tiên được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu rất cao, kết quả đó thể hiện uy tín quốc tế của nước ta và lòng tin của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam.

Tại đối thoại Shangri-La ở Singapore vào tháng 5/2013, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng lần đầu tiên đã chính thức công bố Việt Nam quyết định tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc từ năm 2014. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh khẳng định chúng ta không đưa cán bộ, chiến sĩ vào những nơi có chiến tranh mà thực hiện những công việc mang tính chất củng cố hòa bình và tái thiết ở những đất nước đang còn nghèo. Với quyết định này, chúng ta không chỉ dừng ở mức đóng góp bằng tài chính hay bằng tiếng nói mà cả bằng nhân lực vào công việc chung của Liên Hợp Quốc.

Nếu việc tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) mở đầu sự hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế quốc tế thì với những hoạt động ngoại giao đa phương trên, Việt Nam đã bắt đầu hội nhập đầy đủ vào đời sống chính trị quốc tế.

Chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đang đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của chúng ta lên một tầm cao mới trên tất cả các lĩnh vực, đặt ra yêu cầu cao hơn về tranh thủ thời cơ chiến lược và sức mạnh thời đại cho phát triển đất nước cũng như giữ vững độc lập, tự chủ và môi trường ổn định khi hội nhập sâu và toàn diện với khu vực và thế giới.

Quá trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, để dân tộc ta không đánh mất mình trong thế giới luôn phát triển và biến động khó lường, để hội nhập mà không hòa tan, hơn bao giờ hết, Đảng ta đã chủ trương tích cực triển khai “Chiến lược phát triển văn hóa đến 2020”. Việc tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, học tập những kinh nghiệm tốt xây dựng và phát triển văn hóa của các nước trên thế giới được đẩy mạnh. Mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài đi đôi với việc giữ gìn, bồi đắp bản sắc văn hóa của dân tộc; từ đó phát triển văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới, góp phần vào sự phát triển văn hóa nhân loại. Thông qua các hoạt động văn hoá đối ngoại, bạn bè thế giới hiểu biết hơn về đất nước, con người và văn hoá Việt Nam, từng bước tạo dựng lòng tin đối với Việt Nam, đưa quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững.

Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đang đặt ra cho chúng ta rất nhiều thách thức. Tác động tiêu cực từ các diễn biến bên ngoài sẽ gia tăng. Những bất ổn không chỉ về kinh tế mà cả về an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng tác động tới nước ta; các loại tội phạm xuyên biên giới như: Buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm nhập tiền giả, tài liệu phản động, văn hóa phẩm không lành mạnh và các thách thức an ninh phi truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của an ninh quốc gia từ an ninh kinh tế đến an ninh chính trị xã hội. Đồng thời, yêu cầu bổ sung và hoàn thiện thể chế; cải cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao,...sẽ ngày càng lớn.

Theo đó, để giảm thiểu các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các cơ hội từ hội nhập quốc tế, nội hàm và lộ trình của hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất nước và bối cảnh tình hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ quốc XHCN và vị thế quốc gia.

Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước trên đường hội nhập quốc tế, đảm bảo lợi ích quốc gia tới mức cao nhất có thể và ra sức bảo vệ, phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa bền vững./.

CHUYÊN ĐỀ

hcm

Thư viện ảnh