Chủ tịch Hồ Chí Minh người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tình cảm, tấm lòng của Người đối với nhân dân là một tình thương cao cả, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [1] . Đây là mong ước, mục đích cao đẹp của Người, do đó Người đã phấn đấu cả đời mình, đến cả quên ăn, quên ngủ, từng rơi vào những hoàn cảnh hiểm nguy, hy sinh cả hạnh phúc của riêng mình để đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Điều này không chỉ được thể hiện sâu sắc qua mỗi lời nói, việc làm mà cả trong những lời căn dặn của Bác trong bản Di chúc thiêng liêng.
1. Tình cảm của Người đối với nhân dân trước khi Người viết tác phẩm Di chúc
Thứ nhất, trong tư tưởng lý luận.
Xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn và thương dân vô bờ bến, cảm nhận được sự thống khổ của dân dưới chế độ thực dân phong kiến, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước khi mới vừa tròn 21 tuổi, tại bến cảng Nhà Rồng. Và suốt mấy chục năm sau đó, bôn ba khắp các nước trên thế giới và cho đến lúc về thế giới người hiền, con người vĩ đại ấy đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh giải phóng cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trải qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, Người đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi phong ba bão táp để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và cập đến bến vinh quang. Bên cạnh đó còn, xây dựng các chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch để phát triển kinh tế - xã hội cho nhân dân.
Tình cảm ấy, không đơn thuần là kế thừa truyền thống “yêu nước, thương dân” của dân tộc, mà còn là sự lắng đọng sâu sắc của tất cả những gì Người đã trải qua, chứng kiến và cảm nhận trong những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước cũng như trong cả sự nghiệp giải phóng dân tộc của Người.
Thứ hai, trong hoạt động thực tiễn
Người luôn luôn gắn với nhân dân, tổng kết thực tiễn để đề ra những chủ trương, đường lối phù hợp. Bác đã đi xuống thăm nhân dân, xem xét thực tiễn thực tế của nhân dân từ đó để ra những chủ trương, đường lối phù hợp để phát triển kinh tế - xã hội cho nhân dân.
“Bác vẫn đi kia giữa cánh đồng
Thăm từng ngọn lúa, hỏi từng bông
Ghé từng hợp tác, qua thôn xóm
Xem mấy trường tươi, mấy giếng trong”
“Theo chân Bác” - Tố Hữu
Tình thương yêu của Bác là vô cùng rộng lớn dành cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”
“Bác ơi” - Tố Hữu
Trong những phẩm chất, đạo đức cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có một yếu tố vô cùng quan trọng, là động lực thôi thúc hoạt động không mệt mỏi vì nước, vì dân của Người; cũng là nền gốc để quy tụ, đoàn kết hết thảy mọi tầng lớp, mọi lực lượng,... đó chính là lòng yêu thương con người của Bác.
Người còn kế thừa các quan điểm về nhân dân của ông, cha ta trong việc xây dựng các quan điểm về vị trí, vai trò của nhân dân “chở thuyền cũng là dân và lật thuyền cũng là dân”; “nước lấy dân làm gốc”. Trên cơ sở kế thừa đó, Người kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Người luôn nhận thức một cách sâu sắc về vị trí và vai trò của Nhân dân trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, Người khẳng định rằng “Trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”, “Nước lấy dân làm gốc, gốc có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [2]
Như vậy, đối với Người nhân dân có sức mạnh vô cùng to lớn, sức mạnh và sự đoàn kết của toàn dân tộc là cơ sở để Đảng và nhân dân ta thực hiện thành công công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
2. Tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nhân dân thể hiện qua tác phẩm Di chúc
Trong Di chúc trước lúc đi xa, ngoài di nguyện đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, với Đảng, đoàn viên, thanh niên và một số nội dung khác, thì nội dung về nhân dân có thể nói là nội dung quan trọng nhất, đó chính là mong ước to lớn của Bác, vì chúng ta thấy sâu chuỗi từng nội dung mong ước của Bác đối với từng thành phần nhất định như Đảng, đoàn viên, thanh niên, về kháng chiến chống Mỹ,… đều có chung một mục đích đó chính là đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Tấm lòng của Bác đối với nhân dân thể hiện qua từng nội dung cụ thể:
Thứ nhất, khẳng định vai trò của nhân dân
Mở đầu Di chúc, Người khẳng định: Kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta dù rất khó khăn gian khổ nhưng nhất định sẽ thắng lợi “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn” [3]. Như vậy, chúng ta thấy Người không nói cuộc kháng chiến chống Mỹ của Đảng ta hay quân đội ta, mà là của “nhân dân” ta, qua đó chúng ta thấy Người dùng từ “nhân dân” bao gồm tất cả mọi tầng lớp đều tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, chính sự đoàn kết của toàn dân tộc, dù kháng chiến có khó khăn, gian khổ nhưng nhất định sẽ thắng lợi.
Người còn dự định sau này khi kháng chiến thắng lợi sẽ đi thăm đồng bào cả hai miền Nam Bắc và thay mặt nhân dân thực hiện công tác ngoại giao đi thăm và cám ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước khắp năm châu đã ủng hộ và giúp đỡ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Người còn đi thăm các nước, Người còn đi thăm hỏi cán bộ, chiến sĩ, các cụ phụ lão, thể hiện tình yêu thương mọi tầng lớp, không phân biệt giai cấp. “Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thǎm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta. Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thǎm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp nǎm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta” [4] .
Bên cạnh đó, Người còn khẳng định, mặc dù nhân dân ta khắp cả nước đã bao trời trải qua bao nhiêu gian khổ, khó khăn, anh dũng hy sinh để đấu tranh giải phóng dân tộc, sau khi kháng chiến thắng lợi đã hăng hái, cần cù tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. “NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù” [5].
Thứ hai, khẳng định vai trò của Đảng đối với nhân dân
“Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng” [6] . Qua đó chúng ta thấy Đảng có vai trò rất quan trọng đối với nhân dân, trước hết là xây dựng các chương trình, kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo nhân dân thực hiện đúng và có hiệu quả những chương trình kế hoạch đề ra. Ngoài ra, bên cạnh việc tổ chức, lãnh đạo, cán bộ, đảng viên phải là tấm gương cho nhân dân noi theo, từ đó tạo niềm tin cho nhân dân, giúp nhân dân tin tưởng luôn luôn đi theo Đảng và trung thành với Đảng, đó là cơ sở để Đảng ta có thể lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Thứ ba, yêu cầu đối với Đảng và cán bộ, đảng viên về việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân
Một là, cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, để trở thành những cán bộ, đảng viên vừa có tài và vừa có đức để xứng đáng với vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” [7]. Để xây dựng nên tổ chức đảng thì chúng ta cần có đảng viên và chất lượng đảng viên sẽ quyết định đến chất lượng tổ chức đảng, do đó việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đảm bảo đủ phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Bên cạnh đó, đảng viên chính là người xây dựng, thực hiện, tuyên truyền, kiểm nghiệm và bảo vệ những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước qua đó chúng ta thấy tầm quan trọng, vai trò của đảng viên đối với công tác xây dựng Đảng là cầu nối giữa Đảng với nhân, tuyên truyền chủ trương, đường lối đến với nhân dân, gương mẫu nêu gương với nhân dân trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thay mặt nhân dân trình bày ý kiến, nguyện vọng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Hai là, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [8] . Nghĩa là, Đảng phải đề ra những nghị quyết, chủ trương, chỉ thị, chương trình, kế hoạch cụ thể để phát triển kinh tế, văn hóa và các lĩnh vực khác, đặc biệt chú trọng công tác giáo dục thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của nước nhà, góp phần phát huy vai trò của thế hệ trẻ đối với việc nâng cao đời sống cho nhân dân. Đặc biệt quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo, xây dựng quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của hệ thống chính trị các cấp trong việc chung tay, đồng lòng cùng nhau hướng tới mục tiêu lâu dài là chăm lo xây dựng cho nhân dân một đời sống ấm no và hạnh phúc.
Thứ tư, tấm lòng của Bác đối với nhân dân trước lúc đi xa
Một là, Bác không tiếc gì về vật chất xa hoa hay tiếc gì khác mà Bác chỉ tiếc là không thể phục vụ Tổ quốc, cách mạng và nhân dân lâu hơn được nữa. Bác đã dành cả cuộc đời của mình vì độc lập, tự do, hạnh phúc với nhân dân, đến cuối đời Người cũng không mong cầu gì cho mình, không tiếc gì về những vật chất chỉ tiếc là mình không thể phục vụ nhân dân, không thể quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân được nữa. Bên cạnh đó, Người còn thể hiện một tấm lòng cao cả khi là một lãnh tụ không muốn là người lãnh đạo nhân dân mà chỉ mong muốn phục vụ nhân dân, quan tâm chăm lo lợi ích, vật chất và tinh thần cho nhân. “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Hai là, lúc nào Bác cũng lo nghĩ cho nhân dân sợ nhân dân vì mình mà tốn kém từ lúc sinh thời cho đến trước lúc đi xa Bác cũng không muốn nhân dân lãng phí thì giờ và tiền bạc của mình vì Bác, Bác dành trọn tấm lòng của mình cho nhân dân, chỉ mong mang đến hạnh phúc cho nhân dân, chứ không mưu cầu gì từ nhân dân. “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân” [9] .
Ba là, lời cuối cùng Bác muốn để lại tất cả tình thân yêu mà Bác có cho toàn Đảng, toàn dân, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tình thân yêu ấy là tình thân yêu mà Bác đã dành trọn cho nhân dân trong suốt cả cuộc đời của Bác từ lúc Bác ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc, lãnh đạo nhân đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “của dân, do dân và vì dân”. “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng” [10] .
Thứ năm, mong ước cuối cùng của Bác đối với Đảng và nhân dân trong di nguyện của Bác
Trong mong ước cuối cùng của Bác, Bác mong ước rằng: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [11] . Bác mong rằng Đảng và nhân dân như cá với nước trên dưới một lòng cùng nhau đoàn kết, vững tâm, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng, giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc.
Như vậy, chúng ta thấy rằng tấm lòng của Bác đối với nhân dân vô cùng to lớn, không chỉ thể hiện trong tác phẩm Di chúc mà còn thể hiện thông qua những tư tưởng lý luận, hoạt động thực tiễn và trong cả việc đề ra những chủ trương, đường lối phù hợp để thực hiện các cuộc kháng chiến, đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Người về nhân dân, Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện phương châm gắn bó mật thiết với nhân dân, đoàn kết toàn dân tộc, lấy dân là gốc, chăm lo lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, từ đó Đảng và nhân dân cùng nhau chung tay xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc./.
----------------------------------------------------------
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.5, tr. 502.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr.621.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr.621.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr.622.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr.622.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr.622.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr.622.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr.623.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr.624.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr.624.