Quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết
Tài liệu Hỏi đáp kết quả Hội nghị sơ kết giữa nhiệm kỳ Đại hội X Đảng bộ tỉnh Bến Tre (2015-2020).
Tài liệu Tuyên truyền việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
Thạc sĩ Nguyễn Trúc Hạnh
Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là quá trình phát triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển KTTT của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII về“Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn và giải quyết tốt “mối quan hệ lớn” giữa KTTT với định hướng XHCN ở nước ta, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong nội bộ và toàn xã hội, tránh những lệch lạc về quan điểm trong quá trình xây dựng và hoàn thiện mô hình kinh tế này ở Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, cần nhận thức rõ KTTT định hướng XHCN là một mô hình kinh tế khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người, không phải là sự gán ghép chủ quan, và hoàn toàn có thể thực hiện được ở Việt Nam.
Xét về nguồn gốc, KTTT là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Trong lịch sử kinh tế thế giới, sự hình thành và phát triển của KTTT là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều thế kỷ, qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau, đó là kết quả phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất, của xã hội hóa sản xuất, là tất yếu vận động từ nền sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn và đạt được sự hoàn thiện trong phương thức sản xuất TBCN. Như vậy, KTTT hoàn toàn không phải là thuộc tính riêng có của CNTB mà là thành tựu chung của nhân loại, do đó là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, là một thể chế kinh tế phổ biến đối với tất cả các chế độ chính trị xã hội nào mà ở đó sản xuất hàng hóa còn là tất yếu. Tuy nhiên, trong nền KTTT, quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường, nên KTTT không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Điều đó chứng tỏ, không có và không thể có một nền KTTT chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội và những điều kiện về lịch sử, văn hóa, dân tộc của một quốc gia. Trong đó tiêu chí cơ bản, đầu tiên để phân biệt các nền KTTT khác nhau chính là mục tiêu chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế đó.
Có thể khẳng định rằng, dù chế độ TBCN hay chế độ XHCN đều đứng trước sự giới hạn về tài nguyên, hàng hóa và dịch vụ so với nhu cầu của con người, nên nền sản xuất tất yếu là sản xuất hàng hóa, và yêu cầu phát triển KTTT dưới chế độ TBCN và dưới chế độ XHCN là tất yếu như nhau, chỉ có điểm khác nhau căn bản chính là mục tiêu chính trị của mỗi nền kinh tế.
Mặt khác, thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh một cách khách quan, nền KTTT có nhiều mặt tích cực như: tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nâng cao năng lực quản lý, tạo điều kiện và thúc đẩy phát triển con người, đẩy mạnh xây dựng và phát huy dân chủ…Chính ưu thế này của KTTT đã dẫn đến nhiều quan niệm sai lầm cho rằng, nền kinh tế XHCN thua kém nền kinh tế TBCN. Thực chất, đây chính là ưu thế của nền KTTT so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các quan niệm trên đã đồng nhất KTTT với kinh tế TBCN. Bản thân KTTT cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết tật tự nó không khắc phục được như: suy thoái, khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, tàn phá môi trường… Dù ở chế độ chính trị nào, các quốc gia đều có nhu cầu, phấn đấu đạt đến những yếu tố tích cực của KTTT nhằm phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Nhưng việc có khắc phục hay không những khuyết tật của nền KTTT và khắc phục đến đâu phụ thuộc hoàn toàn vào bản chất chế độ chính trị ở mỗi đất nước.
CNTB đã phát huy tối đa những mặt tích cực của nền KTTT nhưng không khắc phục nổi những khuyết tật của nền kinh tế ấy. Chính bản chất chế độ TBCN đã đẩy tự do cá nhân đến mức cực đoan, con người trở nên ích kỷ, bất chấp mọi giá trị đạo đức xã hội. Trong nền KTTT đó, các doanh nghiệp TBCN tạo nên thành phần kinh tế TBCN giữ vai trò chủ đạo, chi phối; đồng thời Nhà nước bảo vệ chế độ sở hữu, quản lý, điều tiết nền kinh tế là những người đại diện cho quyền và lợi ích của Tư bản. Quan hệ sở hữu tư nhân TBCN làm cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội bị giới hạn bởi mục đích là tối đa hóa lợi nhuận của Tư bản, bóc lột giá trị thặng dư ngày càng nhiều…làm cho những khuyết tật của KTTT trầm trọng hơn và phát sinh những mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Như vậy, khuyết tật của KTTT chỉ có thể khắc phục được ở một chế độ xã hội tiến bộ, có bản chất ưu việt hơn chế độ TBCN. Chính vì thế, phát triển KTTT nhằm ngày càng hoàn thiện hơn kiểu tổ chức kinh tế - xã hội ấy vì sự tiến bộ của nhân loại là một yêu cầu khách quan đối với chế độ XHCN, không phải là sự gán ghép theo mong muốn chủ quan. Điều đó có nghĩa là KTTT định hướng XHCN hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan và có thể thực hiện được ở Việt Nam.
Thứ hai, cần nhận thức rõ đặc trưng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, đánh giá đúng thực trạng và xác định đúng nội dung phát triển nền kinh tế
Có thể nói rằng, KTTT định hướng XHCN ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của KTTT, tuân thủ những quy luật và nguyên tắc của thị trường vừa mang tính đặc thù là định hướng XHCN. Tính định hướng XHCN của nền KTTT không phủ nhận các quy luật KTTT, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa KTTT ở nước ta với các nước khác, đồng thời hạn chế những khuyết tật của KTTT mà chế độ TBCN không giải quyết được. Tính định hướng đó dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chế độ XHCN. Điều này đã được Nghị quyết số 11- NQ/TW khẳng định:“Nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT...”, “là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế...”.
Nghị quyết này đã làm rõ hơn một bước nội hàm hiện đại và hội nhập quốc tế, định hướng XHCN của nền kinh tế nước ta:“Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta thể hiện ở chỗ kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển KTTT của nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn hơn 30 năm đổi mới; có hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định và thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế phổ biến. Định hướng XHCN của nền kinh tế được nhất quán xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”.
Đồng thời, Nghị quyết đã xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng và mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường; nguyên tắc huy động và phân bổ các nguồn lực xã hội, theo đó: “Trong nền KTTT định hướng XHCN, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”.
Về vai trò của các thành phần kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN, Nghị quyết tiếp tục xác định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”, và đề ra chủ trương: “Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”.
Có thể khẳng định, phát triển KTTT ở nước ta là động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực hiện xã hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN là ở chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với quảng đại quần chúng bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội, chứ không vì lợi ích của thiểu số giai cấp thống trị. Chủ trương của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Bởi vấn đề bảo đảm xã hội, công bằng, bình đẳng trong xã hội không chỉ là “phương tiện” để phát triển mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội XHCN.
Chúng ta cần nhận thức một cách đúng đắn, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là một kiểu tổ chức của một xã hội đặc biệt, xã hội đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp, phải trải qua một quá trình chuyển đổi lâu dài từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cùng với nó là quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt cả trong nhận thức, lý luận và thực tiễn. Tính chất gay go thể hiện ở chỗ, chúng ta vừa phải chuyển đổi nền kinh tế từ không có thị trường sang xây dựng và phát triển KTTT từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện và vừa phải đảm bảo định hướng XHCN của nền KTTT ngay từ đầu quá trình chuyển đổi. Bản thân KTTT không tự nó định hướng theo mục tiêu chính trị nào mà phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ khác nhau. Vì vậy, muốn định hướng nền KTTT lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có hai yếu tố cơ bản nhất là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta và sự quản lý đúng đắn, có hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước.
Vai trò của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển KTTT định hướng XHCN đã được thực tiễn 30 năm đổi mới đất nước kiểm nghiệm, chứng minh bằng những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Đó là nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, liên tục nhiều năm, chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được củng cố. Chúng ta đã rất chú trọng phát triển kinh tế đồng thời với phát triển con người, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, xóa đói, giảm nghèo có những thành công và những bước tiến lớn, chí số phát triển con người ở mức cao so với trình độ phát triển kinh tế…Tuy nhiên, KTTT định hướng XHCN ở nước ta là mô hình mang tính đặc thù với xuất phát điểm thấp, là quá trình vừa tìm tòi khảo nghiệm vừa xây dựng phát triển nên gặp không ít khó khăn. Đặc biệt, nền kinh tế thế giới hiện nay vận động trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra rất sâu sắc và nhanh chóng, thị trường là toàn cầu, định chế quản lý là WTO, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và định chế của các khối kinh tế khu vực, chủ thể kinh doanh chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia… càng đặt nền kinh tế nước ta đứng trước nhiều thách thức. Chính vì thế, chúng ta cần nhìn nhận đánh giá khách quan, KTTT nước ta đang ở đâu để có những giải pháp phát triển phù hợp. Có thể khẳng định rằng, nền kinh tế nước ta đã là nền KTTT nhưng còn ở trình độ thấp và chưa đồng bộ; các chủ thể kinh tế phát triển đa dạng nhưng quy mô và năng lực cạnh tranh thấp; quản lý nhà nước thông qua luật pháp và chính sách về cơ bản đã dung hòa với KTTT nhưng hiệu lực và hiệu quả còn thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng chưa bền vững; phân hóa giàu nghèo giãn ra, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn về xã hội…
Vì thế, nhận thức đúng về “mối quan hệ lớn” giữa KTTT với định hướng XHCN ở nước ta, xác định đây là một mô hình kinh tế khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người, không phải là sự gán ghép chủ quan, và hoàn toàn có thể thực hiện được ở Việt Nam, có ý nghĩa rất lớn đối với việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN hiện nay. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ đặc trưng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, đánh giá đúng thực trạng và xác định đúng nội dung phát triển nền kinh tế để có giải pháp và lộ trình thực hiện phù hợp, hiệu quả.
Thạc sĩ Nguyễn Trúc Hạnh
Tỉnh ủy viên - Hiệu trưởng Trường Chính trị
Thứ nhất, về nhiệm vụ xây dựng Đảng
Trường Chính trị đã quan tâm thực hiện đồng bộ các mặt: Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Căn cứ vào những hạn chế, khuyết điểm trên từng lĩnh vực và đề ra những nhiệm vụ cụ thể cho phù hợp.
Đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức. Xuất phát chức năng, nhiệm vụ của Trường Chính trị, từ trình độ nhận thức không đồng đều của đội ngũ công chức, viên chức và người lao động, Trường xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên không chỉ của Đảng ủy mà phối hợp cả Ban Giám hiệu và Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở nhằm nâng cao nhận thức chính trị, quan điểm, lập trường và tính nêu gương về đạo đức cho đội ngũ. Nắm bắt dư luận để kịp thời góp ý, chấn chỉnh về tư tưởng, phong cách, thái độ, phẩm chất đạo đức và kỷ luật phát ngôn; kêu gọi, động viên tinh thần trách nhiệm vì tập thể, gạt bỏ những khác biệt, cái tôi cá nhân, khắc phục tình trạng bằng mặt không bằng lòng, cùng nhau xây dựng khối đoàn kết thống nhất nội bộ. Bên cạnh đó, lãnh đạo nhà trường cũng đã xác định, để có được một nội bộ đoàn kết, thống nhất phải bắt đầu từ nội bộ Đảng ủy, Ban Giám hiệu đến các phòng, khoa. Trong lãnh đạo, điều hành thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách và mối quan hệ giữa tập thể với cá nhân người đứng đầu, thực hiện đúng theo chế độ thủ trưởng; thường xuyên trao đổi, bàn bạc dân chủ trong tập thể Ban Giám hiệu, có phân công, phân cấp, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên Ban Giám hiệu, đồng thời thể hiện được tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị cơ quan. Chính vì vậy, Trường Chính trị đã thực hiện tốt 3 nội dung của phương châm Đại hội “Dân chủ, Kỷ cương, Đoàn kết” mà Trường đã lựa chọn đăng ký năm 2016, xây dựng được khối đoàn kết thống nhất nội bộ, sự đồng thuận trong cơ quan, góp phần lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao với khối lượng công việc nhiều và chất lượng ngày càng cao, trong đó đã tập trung giải quyết dứt điểm những vấn đề tồn đọng của trường về chế độ giờ giảng của giảng viên, tạo sự hài hòa về lợi ích trong cả tập thể cơ quan. Cùng với đó, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường rất quan tâm lãnh đạo việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 04-NQ/TW, khóa XII bằng việc tổ chức quán triệt sâu trong nội bộ và đăng ký công việc cụ thể, cam kết không vi phạm của từng cá nhân.
Về công tác tổ chức cán bộ, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Trường đã triển khai thực hiện nhiệm vụ kiện toàn tổ chức bộ máy. Trong năm 2016, thực hiện quy trình bổ nhiệm Phó Hiệu trưởng từ nguồn tại chỗ đảm bảo dân chủ, công khai; bổ sung quy chế, chấn chỉnh hoạt động của các bộ phận đi vào nền nếp, rà soát đánh giá năng lực cán bộ bổ nhiệm vào các vị trí còn khuyết: Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học - Thông tin - Tư liệu, Phó phòng Đào tạo, Phó khoa Dân vận, Phó khoa Nhà nước và Pháp luật; đồng thời quyết định cho thôi giữ nhiệm vụ Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị, điều động bổ nhiệm người thay thế.
Quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ giảng viên đảm bảo số lượng và chất lượng, Trường đã tiến hành rà soát đánh giá lại năng lực giảng dạy và phân công lại bài giảng cho giảng viên, theo đó một bài giảng có 2 giảng viên nghiên cứu, soạn giảng, phân công luân phiên giảng dạy các bài trong chương trình, vừa tạo điều kiện nâng tầm giảng viên vừa đảm bảo kế hoạch giảng dạy của nhà trường; đồng thời thực hiện điều tiết công việc cho phù hợp với định mức giờ chuẩn giảng dạy trong từng năm. Trên cơ sở rà soát đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên, phân công lại công việc đối với giảng viên chưa đạt chuẩn, không có trình độ chuyên môn sâu và khả năng giảng dạy tốt; thực hiện quy trình xét tuyển 3 viên chức để đào tạo giảng viên đúng chuyên ngành theo yêu cầu nhiệm vụ các khoa. Đồng thời, Đảng ủy, Ban Giám hiệu đã bổ sung, điều chỉnh kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ viên chức hiện tại đảm bảo đúng định hướng quy hoạch của nhà trường; xây dựng quy hoạch A1 cho các chức danh Trưởng, phó phòng, khoa và các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; xây dựng đề án vị trí việc làm của cơ quan.
Năm 2016, nhà trường đã cử 28 lượt viên chức tham dự tập huấn các lớp do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các bộ, ngành Trung ương và địa phương tổ chức; 01 giảng viên tiếp tục hoàn thành chương trình đào tạo nghiên cứu sinh; 03 cao học, 01 đào tạo đại học văn bằng 2; 02 Cao cấp lý luận chính trị và 03 đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính.
Thứ hai, về thực hiện nhiệm vụ chính trị của Trường
Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường đã xây dựng kế hoạch và nghiêm túc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh đề ra “Đổi mới và nâng cao hiệu quả đào tạo của Trường Chính trị theo yêu cầu mới”, cùng với Kết luận 117-KL/TW, ngày 20/11/2015 của Ban Bí thư khóa XI và Kế hoạch số 19/KH-HVCTQG ngày 17/02/2016 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; công văn chỉ đạo 169-CV/TU ngày 28/01/2016 và công văn 255-CV/TU ngày 11/4/2016 của Tỉnh ủy Bến Tre về nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị của Trường Chính trị. Trong đó tập trung lãnh đạo thực hiện tốt hai nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học.
Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhà trường đã bám sát chức năng, nhiệm vụ được giao, đẩy mạnh đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, ngay từ khâu xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch, đến đổi mới phương pháp quản lý và hình thức thi, nhằm hướng đến mục tiêu: Học thực chất, thi thực chất và kết quả thực chất. Năm qua, Trường đã đào tạo 28 lớp, với 2.310 học viên; 37 lớp bồi dưỡng, với 3.928 học viên, đạt 104% chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Về thực hiện nội dung, chương trình đào tạo, được cụ thể hóa theo phương châm gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành, sắp xếp các phần học đảm bảo tính hệ thống, khoa học, đan xen học lý thuyết với thảo luận, báo cáo chuyên đề thực tế. Thực hiện điều chỉnh chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính theo hướng dẫn của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và bổ sung một số chuyên đề theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh. Ngoài ra, Trường còn xây dựng kế hoạch mời Thường trực Tỉnh ủy có buổi nói chuyện định hướng tư tưởng, nâng cao tính đảng và truyền cảm hứng, khơi gợi, nâng cao ý thức trách nhiệm cho học viên trước khi tốt nghiệp ra trường.
Trên cơ sở chương trình chung, sau khi có Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo toàn thể giảng viên chủ động cập nhật kiến thức, quan điểm mới vào bài giảng, đảm bảo tính thông tin, định hướng kịp thời về đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, qua đó nhằm đáp ứng tốt hơn mục tiêu đào tạo cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ cho học viên.
Về quản lý học viên, Ban Giám hiệu nhà trường đã xây dựng và ban hành bộ quy chế mới về Quản lý đào tạo, quy chế về quản lý các lớp bồi dưỡng và quy chế cán bộ coi thi và nội quy phòng thi tại Trường Chính trị Bến Tre trên cơ sở có sự tích hợp giữa bộ quy chế quản lý đào tạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thông tư Liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT của Bộ Nội vụ - Bộ Giáo dục và Đào tạo và điều kiện thực tiễn của tỉnh. Công tác quản lý học viên được đổi mới trong tất cả các quy trình quản lý, từ khâu tuyển sinh cho đến xem xét đánh giá kết quả học tập và rèn luyện, đi vào nề nếp, kỷ luật, kỷ cương và chặt chẽ hơn. Chính vì vậy, học viên tốt nghiệp ra trường xếp loại có thấp hơn trước (phần lớn là trung bình - 62% - 448/722 học viên; loại khá - 38% - 274/722 học viên; trong số 722 học viên được tốt nghiệp ra trường có 105 trường hợp thi tốt nghiệp lần 1 không đạt phải thi lại, chiếm 14,5%. Tuy nhiên, kết quả đào tạo hướng đến thực chất hơn.
Song song đó, nhà trường thường xuyên liên hệ, phối hợp với cơ quan chủ quản quản lý chặt chẽ quá trình học tập, rèn luyện của học viên, kịp thời phản ánh tinh thần, thái độ và kết quả học tập để cơ quan quản lý học viên nắm và có sự phối hợp tốt trong quản lý.
Về nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường chú trọng trước hết là chất lượng đội ngũ giảng viên. Ngoài việc rà soát, điều chuyển, phân công lại đội ngũ giảng viên, Ban Giám hiệu rất quan tâm công tác thao giảng, dự giờ, góp ý cả về nội dung, phong cách, thái độ, tư tưởng, tâm lý giảng viên khi lên lớp, nhất là đối với giảng viên trẻ; duy trì lấy ý kiến phản hồi từ người học - một kênh thông tin quan trọng để đánh giá chất lượng giảng viên và góp phần nâng cao tinh thần, trách nhiệm của giảng viên.
Đối với công tác nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế, đây là nhiệm vụ không tách rời với nhiệm vụ giảng dạy nhằm tăng tính thực tiễn cho bài giảng của giảng viên. Tất cả các khoa đều có kế hoạch nghiên cứu thực tế được Ban Giám hiệu phê duyệt ngay từ đầu năm học và triển khai thực hiện tùy vào điều kiện thời gian cụ thể, duy trì kế hoạch nghiên cứu thực tế hàng năm của nhà trường nhằm học tập kinh nghiệm các trường chính trị tỉnh bạn.
Đối với nghiên cứu khoa học, giảng viên tham gia viết bài đăng Website của trường nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn, tổ chức tọa đàm nội bộ với chủ đề “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Trường Chính trị Bến Tre”, nghiệm thu đề tài khoa học cấp cơ sở do Khoa Dân vận chủ trì “Tăng cường quản lý nhà nước về công tác tôn giáo ở cấp xã tỉnh Bến Tre”; đề tài “Phát huy vai trò chủ thể nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bến Tre” do cá nhân giảng viên thực hiện; biên soạn giáo trình phần học “Tình hình, nhiệm vụ của địa phương” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính theo Hướng dẫn của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đã được Học viện thẩm định và cho phép xuất bản; hoàn thành khảo sát đánh giá chất lượng, hiệu quả đào tạo Trung cấp LLCT-HC cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Bến Tre, giai đoạn 2010-2015, làm cơ sở để trường tiếp tục tổ chức tọa đàm tìm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo trong thời gian tới.
Tóm lại, những kết quả quan trọng trên thể hiện sự nỗ lực phấn đấu chung của toàn thể cán bộ, viên chức nhà trường, tuy chưa toàn diện và đồng bộ nhưng đánh dấu sự chuyển biến tích cực về nhiều mặt sau một năm “khởi động” đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đây sẽ là nguồn động viên rất lớn để toàn thể cán bộ, giảng viên Trường Chính trị tiếp tục thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đề ra.
Năm 2017,Tỉnh ủy xác định là “năm hành động” của toàn tỉnh, nhằm tạo sự chuyển biến đồng bộ trong tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở, để tăng tốc trong những năm tiếp theo của cả nhiệm kỳ. Quán triệt chủ trương trên, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Chính trị đã quan tâm lãnh đạo xây dựng kế hoạch triển khai các đầu việc theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Trường.
Về công tác xây dựng Đảng, Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường kịp thời triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, quan tâm kiểm tra đánh giá chất lượng sau học tập; kịp thời nắm bắt dư luận để góp ý, phê bình, chấn chỉnh những biểu hiện tiêu cực của cán bộ, giảng viên, không để xảy ra sai phạm phải xử lý kỷ luật. Kiểm tra đánh giá việc thực hiện bản đăng ký công việc cụ thể của từng cá nhân năm 2017, gắn với nhiệm vụ chuyên môn và bản cam kết không vi phạm 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII. Duy trì thực hiện tốt 3 thành tố “Dân chủ, Kỷ cương, Đoàn kết” đồng thời với sự “Năng động, Đổi mới” trong đội ngũ của Trường.
Hoàn thành Đề án vị trí việc làm của cơ quan, làm cơ sở rà soát lại biên chế gắn với chức năng, nhiệm vụ của trường, tiếp tục tuyển dụng viên chức đưa đi đào tạo giảng viên đúng chuyên ngành, tạo nguồn kế thừa cho tương lai.
Về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng ủy, Ban Giám hiệu lãnh đạo thực hiện hoàn thành kế hoạch với 45 lớp đào tạo và bồi dưỡng (4.866 học viên). Đẩy mạnh phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” gắn với việc tổ chức Hội thi Giảng viên dạy giỏi cấp trường, qua đó tuyển chọn 02 giảng viên tham gia Hội thi Giảng viên dạy giỏi toàn quốc các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lần thứ VI - năm 2017; tổ chức Hội thi Học viên học giỏi lý luận chính trị đạt hiệu quả, đảm bảo chất lượng.
Trong đào tạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tăng cường quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng theo quy chế quản lý đào tạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và quy chế quản lý đào tạo, quy chế quản lý các lớp bồi dưỡng của Trường Chính trị ban hành nhằm hướng đến mục tiêu: Học thực chất, thi thực chất và kết quả thực chất; thẩm định bộ đề thi của các khoa theo hướng đa dạng hình thức. Thực hiện tốt các hoạt động chuyên môn như: Phân công bài giảng luân phiên, thao giảng dự giờ nghiêm túc, chất lượng, hiệu quả. Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập, chú trọng tính tích cực, chủ động của người học. Nâng cao tính thực tiễn của nội dung chương trình thông qua việc mời lãnh đạo sở, ban, ngành tỉnh báo cáo các vấn đề thực tiễn cho các lớp học.
Thực hiện tốt công quản lý, theo dõi việc thực hiện chương trình tại các lớp. Giám sát chặt chẽ công tác thi, chấm thi, viết khóa luận, chấm khóa luận, thi tốt nghiệp nhằm đánh giá thực chất chất lượng học tập của học viên, đảm bảo tính khách quan, công tâm.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với cán bộ, giảng viên trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ theo quy định và sự phân công của Ban Giám hiệu, của lãnh đạo các khoa, phòng.
Mỗi cán bộ, giảng viên phải tâm huyết, trách nhiệm hơn với sự nghiệp chung của nhà trường; phải năng động, sáng tạo, đổi mới về tư duy, nội dung và phương pháp trong từng bài giảng, gắn sát với thực tiễn sinh động của địa phương; tích cực hơn trong nghiên cứu khoa học, phục vụ tốt yêu cầu giảng dạy và học tập của nhà trường, quan tâm và thực hiện tốt hai nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học, tham gia tích cực viết bài đăng Website chào mừng các ngày lễ lớn trong năm và xuất bản bản tin “Thông tin lý luận và thực tiễn”, tham gia hội thảo và tọa đàm khoa học theo kế hoạch, đạt chất lượng. Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm quy chế nghiên cứu thực tế của giảng viên, sau mỗi chuyến thực tế cần có báo cáo kết quả cụ thể và việc vận dụng vào bài giảng. Qua đó củng cố và xây dựng cho được hình ảnh chuẩn mực của “người thầy giáo chính trị” mà xã hội đã tôn vinh.
Tin tưởng rằng, với những kết quả đạt được của năm 2016, bước sang năm mới 2017 với khí thế mới, khí thế của “năm hành động”, tập thể cán bộ, giảng viên Trường Chính trị sẽ đồng sức, đồng lòng, cùng chung sức thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Đó sẽ là kết quả ý nghĩa nhất để tập thể cán bộ, giảng viên Trường Chính trị lập thành tích chào mừng kỷ niệm 70 năm thành lập Trường vào dịp 20 tháng 11 năm 2017./.
Thạc sĩ Nguyễn Trúc Hạnh
Tỉnh ủy viên, Hiệu Trưởng Trường Chính trị
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ X đã đề ra phương châm 10 chữ: “Dân chủ, Kỷ cương, Đoàn kết, Năng động, Đổi mới”. Đây không chỉ là tư tưởng chỉ đạo trong suốt tiến trình diễn ra Đại hội mà còn là tư tưởng định hướng cho hành động của toàn Đảng, toàn dân và quân ta, nhằm nâng cao quyết tâm chính trị, đồng sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội trong nhiệm kỳ 2015-2020.
Việc lựa chọn, đề ra phương châm Đại hội với 5 nội dung được sắp xếp theo thứ tự “Dân chủ, Kỷ cương, Đoàn kết, Năng động, Đổi mới” vừa thể hiện tính lô-gic về mặt lý luận, vừa phù hợp với yêu cầu thực tế tình hình tỉnh Bến Tre hiện nay. Không những thế, phương châm ấy rất sát với yêu cầu của từng ngành, từng cơ quan, đơn vị, trong đó có Trường Chính trị tỉnh Bến Tre.
Về phương diện lý thuyết, dân chủ thực sự là điều kiện để mọi người có thể đề đạt chính kiến, thể hiện tâm tư, nguyện vọng của mình; đồng thời những ý kiến ấy được tôn trọng, lắng nghe. Mục đích của dân chủ là tạo sự thống nhất, đồng lòng, phát huy sức mạnh của tập thể. Song, dân chủ chỉ thể hiện đầy đủ giá trị và ý nghĩa của nó khi đặt trong khuôn khổ của những nguyên tắc, quy định, gắn liền với kỷ luật, kỷ cương. Thực chất, đây là mối quan hệ không tách rời giữa dân chủ với tập trung, giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; là sự kết hợp hài hòa giữa ý kiến tập thể với bản lĩnh, trách nhiệm của người đứng đầu - phải dám nghĩ, dám quyết, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Có như thế mới không dẫn đến tình trạng dân chủ quá trớn, dân chủ vô chính phủ.
Khi dân chủ gắn với kỷ cương sẽ là cơ sở của sự đoàn kết, thống nhất, hài hòa các mối quan hệ lợi ích, tạo nên sự cộng đồng trách nhiệm vì lợi ích chung của tập thể và xây dựng môi trường làm việc thoải mái, chân tình và hiệu quả. Trong môi trường đó, từng cá nhân mong muốn được cống hiến, phát huy hết khả năng của mình và được ghi nhận, đánh giá một cách công tâm, khách quan. Từ đó, tạo nên sự năng động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ được giao và không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của tình hình mới.
Về mặt thực tiễn, trong những năm qua, với sự nỗ lực vươn lên của Đảng bộ và nhân dân Bến Tre, công tác xây dựng Đảng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh có nhiều chuyển biến. Xét về tiêu chí, Bến Tre hiện nay đã thoát khỏi tỉnh nghèo trở thành tỉnh có thu nhập trung bình. Song, trên thực tế Bến Tre vẫn chưa thoát hết nghèo khó, kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, sức cạnh tranh yếu, hội nhập thấp, thu ngân sách chỉ vừa đủ chi cho sự nghiệp giáo dục của tỉnh nhà, còn phụ thuộc vào sự trợ cấp của Trung ương. Vì thế, nguồn lực đầu tư phát triển rất hạn chế. Cùng với đó, trước sự tác động và ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, tình trạng xâm nhập mặn hiện nay, Bến Tre càng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, sự tụt hậu về kinh tế không còn là nguy cơ mà đã và đang trở thành thách thức hiển hiện đối với Bến Tre trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ thực trạng đó, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre càng phải nâng cao quyết tâm chính trị; quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt phương châm Đại hội “Dân chủ, Kỷ cương, Đoàn kết, Năng động, Đổi mới” với tinh thần “Đồng khởi mới” để xây dựng Đảng bộ Bến Tre thật trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo tỉnh nhà vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, nâng mức sống người dân ngang bằng với mức bình quân chung của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Thứ nhất, thực hiện “Dân chủ” là để phát huy tinh thần Đồng khởi, vì ý nghĩa của cuộc Đồng khởi năm xưa chính là phát huy sức dân, tạo nên sự đồng lòng, đồng loạt, ý chí và sức mạnh tổng hợp của toàn dân để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại sự đàn áp dã man của chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Trong điều kiện hiện nay, với tinh thần Đồng khởi mới, Bến Tre quyết tâm tạo nên phong trào đồng khởi khởi nghiệp tại quê hương, huy động mọi nguồn lực trong dân, đưa tỉnh nhà thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân đúng theo tư tưởng chỉ đạo của chủ đề Đại hội.
Thứ hai, có dân chủ rồi phải xác lập cho được “Kỷ cương”, kỷ luật nghiêm minh để tránh sai phạm trong hành động. Nguyên tắc này cần được quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm trong cả hệ thống chính trị, cấp càng cao càng phải kỷ cương. Như thế, vừa thể hiện tính răn đe trong nội bộ vừa nêu gương cho xã hội, góp phần quan trọng xây dựng Đảng bộ Bến Tre trong sạch, vững mạnh; nâng cao uy tín đội ngũ cán bộ, đảng viên và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân trong phong trào thi đua “Đồng khởi mới”.
Thứ ba, dân chủ thực sự gắn với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương nhất định sẽ tạo nên sự thống nhất, đồng lòng, sẻ chia, cộng đồng trách nhiệm giữa các cá nhân, tổ chức, đây chính là cơ sở của “Đoàn kết”. Có đoàn kết thì tính thống nhất càng cao và càng thống nhất thì tinh thần đoàn kết càng thêm bền chặt. Đoàn kết, trước hết từ trong nội bộ, đặt lợi ích tập thể lên trên, lên trước, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chung của tỉnh nhà.
Thứ tư, dân chủ, kỷ cương, đoàn kết là động lực tạo nên tính “Năng động”, sáng tạo của con người. Đây cũng chính là một trong những yếu tố làm nên thắng lợi của cuộc Đồng khởi năm 1960. Hiện nay, trước những khó khăn, thách thức của tỉnh nhà, từng cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các ngành, các cấp phải trách nhiệm hơn nữa với quê hương, sự năng động, sáng tạo của mỗi người càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Nếu không năng động thì chúng ta không thể thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thậm chí tụt hậu xa hơn so với các tỉnh bạn.
Thứ năm, Nếu tất cả các cấp, các ngành đều năng động trong thực hiện nhiệm vụ của mình thì sẽ tạo nên sự “Đổi mới” đồng bộ, nhất là trong điều kiện hội nhập hiện nay, năng động, đổi mới chính là động lực cho sự phát triển. Đây là mục tiêu bao trùm nhất mà Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã đề ra.
Với ý nghĩa về lý luận và thực tiễn của phương châm Đại hội, Trường Chính trị Bến Tre đã tổ chức hội nghị toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động quán triệt sâu sắc phương châm cùng với những nhiệm vụ chủ yếu của Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh, đồng thời xây dựng kế hoạch thực hiện với những đầu việc cụ thể, tập trung vào 2 nhiệm vụ trọng tâm: xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Trường xác định lựa chọn 3 nội dung triển khai thực hiện ngay từ năm 2016 để xây dựng nội bộ thật sự “Dân chủ, Kỷ cương, Đoàn kết”. Đây là cơ sở quyết định cho lộ trình tiếp theo: nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cán bộ, giảng viên, loại bỏ sức ỳ, xây dựng tư tưởng tiến công, tính “Năng động, Đổi mới”, sáng tạo đảm bảo chất lượng, hiệu quả công việc trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Trước hết, về nhiệm vụ xây dựng Đảng, Trường Chính trị quan tâm thực hiện đồng bộ các mặt: xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Căn cứ vào những hạn chế, khuyết điểm trên từng lĩnh vực để đề ra nhiệm vụ cụ thể cho phù hợp.
Đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, xuất phát chức năng, nhiệm vụ của Trường Chính trị, từ trình độ nhận thức không đồng đều của đội ngũ CBCC, VC, Trường xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên không chỉ của Đảng ủy mà phối hợp cả Ban Giám hiệu và Ban chấp hành công đoàn cơ sở nhằm nâng cao nhận thức chính trị, quan điểm, lập trường và tính nêu gương về đạo đức cho đội ngũ. Nắm bắt dư luận để kịp thời góp ý, chấn chỉnh về tư tưởng, phong cách, thái độ, về phẩm chất đạo đức và kỷ luật phát ngôn; kêu gọi, động viên tinh thần trách nhiệm vì tập thể, gạt bỏ những khác biệt, cái tôi cá nhân, khắc phục tình trạng bằng mặt không bằng lòng, cùng nhau xây dựng khối đoàn kết thống nhất nội bộ.
Để có được một nội bộ đoàn kết, thống nhất, phải thực hiện tốt “dân chủ - kỷ cương” trong nhà trường, bắt đầu từ nội bộ Đảng ủy, Ban Giám hiệu đến các phòng, khoa. Sự công khai, minh bạch, sự bàn bạc, trao đổi thấu đáo, sự tôn trọng, lắng nghe, sự quyết đoán của người đứng đầu trên cơ sở hài hòa về lợi ích sẽ tạo nên sự ổn định tư tưởng, đoàn kết thống nhất thật sự. Chính vì thế, trước khi đưa ra quyết định, Đảng ủy, Ban Giám hiệu đều trao đổi, lắng nghe ý kiến, tạo sự đồng thuận trong tập thể, từ đó lãnh đạo mọi cá nhân chấp hành nghiêm túc.
Về công tác tổ chức cán bộ, Trường xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch kiện toàn tổ chức bộ máy; xin chủ trương bổ nhiệm Phó Hiệu trưởng từ nguồn tại chỗ, thực hiện quy trình dân chủ, công khai, lấy ý kiến tín nhiệm toàn thể cơ quan đối với tất cả cán bộ trong diện quy hoạch được Ban Thường vụ Tỉnh ủy phê duyệt; điều chuyển, phân công lại nhiệm vụ cán bộ phù hợp với yêu cầu công việc, năng lực, sở trường; rà soát, bổ sung biên chế từng bộ phận; xin cơ chế đặc thù để tuyển dụng viên chức đưa đi đào tạo văn bằng 2 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhằm tạo lực lượng giảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện tại và nguồn kế thừa cho tương lai. Đồng thời, Đảng ủy, Ban Giám hiệu bổ sung, điều chỉnh kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, giảng viên hiện tại đảm bảo đúng định hướng quy hoạch của nhà trường, chuẩn bị quy hoạch A1 cho nhiệm kỳ 2020-2025.
Với tinh thần dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật nghiêm minh, Trường đã tạo được không khí làm việc phấn khởi, động viên anh em phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công, đưa hoạt động nhà trường đi vào nền nếp hơn.
Thứ hai, về thực hiện nhiệm vụ chính trị của trường, Đảng ủy, Ban Giám hiệu nghiêm túc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh đề ra “Đổi mới và nâng cao hiệu quả đào tạo của Trường Chính trị theo yêu cầu mới”, cùng với Kết luận 117-KL/TW, ngày 20/11/2015 của Ban Bí thư, khóa XI. Trong đó tập trung lãnh đạo thực hiện tốt 2 nhiệm vụ chủ yếu: giảng dạy và nghiên cứu khoa học, khắc phục tình trạng xem nhẹ nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trong đội ngũ cán bộ, giảng viên.
Về nâng cao chất lượng đào tạo, chú trọng trước hết là chất lượng đội ngũ giảng viên vì đây là yếu tố quyết định đầu tiên chất lượng đào tạo của Trường. Bắt đầu từ việc rà soát, đánh giá lại năng lực giảng dạy của từng giảng viên, phân công lại bài giảng một cách hợp lý cho cả giảng viên chính thức và giảng viên dự bị, tạo điều kiện cho giảng viên luân phiên tham gia giảng các bài trong chương trình vừa nâng tầm vừa đảm bảo kế hoạch giảng dạy của nhà trường. Ngoài việc thao giảng, dự giờ theo kế hoạch, theo dõi, quản lý chặt chẽ đội ngũ giảng viên, góp ý cả về nội dung, về phong cách, thái độ, tư tưởng, tâm lý khi lên lớp; kịp thời vận dụng Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào bài giảng; đổi mới phương pháp, nội dung giảng dạy hướng đến rèn luyện kỹ năng, xử lý tình huống, gắn lý luận với thực tiễn thông qua mời báo cáo thực tế, giới thiệu mô hình của các ngành, địa phương liên quan nội dung giảng dạy nhằm đảm bảo mục tiêu đào tạo cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ cho người học. Cùng với đó, Trường thường xuyên liên hệ, phối hợp cơ quan chủ quản quản lý chặt chẽ quá trình học tập, rèn luyện của học viên, đồng thời tổ chức thi hết môn, tốt nghiệp cuối khóa đảm bảo đúng quy chế, công tâm, khách quan nhằm nâng cao chất lượng học tập của học viên.
Về nghiên cứu thực tế và nghiên cứu khoa học, đây là nhiệm vụ không tách rời với nhiệm vụ giảng dạy nhằm tăng tính thực tiễn cho bài giảng của giảng viên. Tất cả các khoa đều có kế hoạch thực tế ngay từ đầu năm học và triển khai thực hiện tùy vào điều kiện thời gian cụ thể, nhưng cơ bản đảm bảo đúng kế hoạch. Đối với nghiên cứu khoa học, cán bộ, giảng viên tham gia viết bài đăng website của trường, tham gia tọa đàm nội bộ với chủ đề “nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo cán bộ của Trường Chính trị” và tọa đàm cấp tỉnh về “thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI gắn với Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị, khóa XI”; tổ chức khảo sát, đánh giá hiệu quả đào tạo của Trường Chính trị Bến tre giai đoạn 2010-2015. Đồng thời lựa chọn đề tài khoa học cấp tỉnh sát với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương để đội ngũ giảng viên cùng tham gia thực hiện. Kết quả nghiên cứu khoa học đưa vào tiêu chí xét thi đua cuối năm cho cán bộ, giảng viên nhà trường.
Tóm lại, Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt cho tỉnh nhà là nhiệm vụ hết sức nặng nề, nhưng càng nặng nề hơn trước yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển hiện nay. Chính vì vậy, Trường Chính trị Bến Tre phải nỗ lực, phấn đấu, quyết tâm hơn nữa; mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động không chỉ quán triệt sâu sắc phương châm “Dân chủ, Kỷ cương, Đoàn kết, Năng động, Đổi mới” mà cần hiện thực hóa phương châm ấy vào hành động cụ thể phù hợp với nhiệm vụ được phân công. Với tinh thần trách nhiệm, đồng sức, đồng lòng, tập thể nhà trường sẽ vượt qua mọi khó khăn về rào cản tâm lý, về thói quen, lối mòn để xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh và từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của Trường xứng đáng với niềm tin, lòng mong đợi của Đảng bộ, nhân dân tỉnh nhà./.
Nguyễn Thị Yến
Trưởng khoa Dân vận
Vào ngày 23 tháng 2 năm 2016, Đảng ủy Khối Các cơ quan tỉnh Bến Tre đã tổ chức Hội nghị triển khai quán triệt các văn bản cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ XII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, chủ trì hội nghị là đồng chí Bùi Văn Bia, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy Khối Các cơ quan, với Trường Chính trị có đồng chí Đỗ Nam Phong, Bí thư Đảng ủy và các đồng chí đảng ủy viên phụ trách công tác tuyên huấn, tổ chức tham dự.
Đồng chí Bùi Văn Bia, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy Khối triển khai Nghị quyết
Nội dung buổi triển khai gồm các báo cáo:
+ Nghị quyết số 03-NQ/ĐUK ngày 04 tháng 01 năm 2016 về: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Khối trong tình hình mới;
+ Chỉ thị số 01 của Đảng ủy Khối về việc tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp ủy cơ sở trong thực hiện cải cách hành chính và quy chế dân chủ ở các cơ quan, đơn vị trong Đảng bộ Khối;
+ Đề án số 01-ĐA/ĐUK ngày 29 tháng 01 năm 2016 về: Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ trong Đảng bộ Khối Các cơ quan tỉnh;
+ Triển khai dự thảo kế hoạch phân công các đồng chí trong Đảng ủy Khối dự sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ theo Đề án số 01-ĐA/ĐUK của Đảng ủy Khối.
Đồng chí Bùi Văn Bia, Bí thư Đảng ủy Khối đã nhấn mạnh:
Một là, với Nghị quyết số 03-NQ/ĐUK ngày 04 tháng 01 năm 2016
- Một trong mục tiêu đề ra đó là 3 bước đột phá mà các đảng bộ, chi bộ cơ sở cần tập trung thực hiện và phải tạo sự chuyển biến, đó là:
Thứ nhất, nâng cao năng lực, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ.
Thứ ba, lãnh đạo thực hiện tốt cải cách hành chính và quy chế dân chủ trong hoạt động của từng cơ quan, đơn vị và trong công tác xây dựng Đảng.
- Về 8 nhiệm vụ, giải pháp, các tổ chức cơ sở đảng tập trung thực hiện gồm:
Thứ nhất, nhận thức đúng đắn về vai trò lãnh đạo và chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở từng cơ quan, đơn vị;
Thứ hai, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên;
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng; xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa tập thể cấp ủy và bí thư cấp ủy với tập thể lãnh đạo và thủ trưởng cơ quan, đơn vị;
Thứ tư, thường xuyên rà soát, bổ sung quy chế và tổ chức thực hiện tốt các quy chế của tổ chức cơ sở đảng; đồng thời lãnh đạo cơ quan, đơn vị thường xuyên rà soát, bổ sung quy chế làm việc và quy chế dân chủ ở cơ sở;
Thứ năm, thực hiện nghiêm túc, có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ, đảm bảo nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng;
Thứ sáu, phát huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị và vai trò của các đoàn thể tham gia xây dựng đảng bộ, chi bộ;
Thứ bảy, tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên;
Thứ tám, quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo và cụ thể hóa thực hiện phương châm hành động của Đại hội X Đảng bộ tỉnh “Dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, năng động, đổi mới”.
Đồng chí Bí thư Đảng bộ Khối đã lưu ý, với nhiệm vụ giải pháp thứ nhất về nhận thức đúng đắn vai trò lãnh đạo và chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở từng cơ quan cần tập trung việc khắc phục những nhận thức chưa đầy đủ vai trò lãnh đạo của Đảng, nhất là vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc Đảng bộ Khối Các cơ quan tỉnh. Làm cho mỗi cấp ủy viên, đảng viên hiểu và nắm vững chức trách, nhiệm vụ của mình, phát huy dân chủ, đề cao trí tuệ tập thể và trách nhiệm của tổ chức đảng, đặc biệt trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, công tác tổ chức cán bộ. Đồng thời tôn trọng và phát huy sự tham gia đóng góp của các tổ chức đoàn thể vào việc xây dựng chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ công tác của cơ quan, đơn vị.
Với nhiệm vụ, giải pháp thứ tám là quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo và cụ thể hóa thực hiện phương châm hành động của Đại hội X Đảng bộ tỉnh: “Dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, năng động, đổi mới”, Bí thư Đảng ủy Khối yêu cầu:
+ Từng cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong Khối phải quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo và phương châm hành động của Đại hội X Đảng bộ tỉnh, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động, trở thành nếp nghĩ, việc làm thường xuyên trong hoạt động của mỗi tập thể và trong công tác, sinh hoạt của từng cá nhân, nhất là trong công tác lãnh đạo, điều hành của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng; có hình thức thực hiện phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng cơ quan, đơn vị.
+ Thường trực và các cơ quan chuyên trách của Đảng ủy Khối sẽ triển khai thực hiện cụ thể phương châm trên, trong đó tập trung phát huy tính năng động, đổi mới trong hoạt động của từng cơ quan chuyên trách và mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức xem đây là khâu đột phá, đồng thời với việc phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, tăng cường đoàn kết, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Hai là, với Đề án số 01-ĐA/ĐUK ngày 29 tháng 01 năm 2016 về: Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ trong Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh.
-Về mục tiêu:
Nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng công tác xây dựng Đảng của các cơ quan, đơn vị trong Khối, góp phần xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị;
Tạo bước chuyển biến tích cực trong việc duy trì nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ; thực hiện đúng các nguyên tắc về tổ chức và sinh hoạt Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng; thực sự phát huy dân chủ, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tự phê bình và phê bình, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, phát huy vai trò người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên nhằm tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, của chi bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan.
-Đề án đã xây dựng 05 nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện các mục tiêu đề ra.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cấp ủy, đảng viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ;
Thứ hai, thực hiện nghiêm túc, nền nếp và đổi mới nội dung, phương pháp, nâng chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ;
Thứ ba, bồi dưỡng, tập huấn, cập nhật kiến thức cho cấp ủy viên;
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát;
Thứ năm, tăng cường vai trò, hướng dẫn của cấp trên.
Kết thúc Hội nghị, Bí thư Đảng ủy Khối chỉ đạo để từng tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong Khối nắm và thực hiện.
- Sau khi ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết số 03 và Chỉ thị số 01 Đảng ủy Khối Các cơ quan tỉnh sẽ tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm vào quý II năm 2018; Đề án số 01 tiến hành sơ kết vào quý II hàng năm, cả nghị quyết, chỉ thị và đề án trên được tổng kết vào quý I năm 2020.
Trong quá trình thực hiện, Đảng ủy Khối sẽ chọn một số đơn vị làm điểm để rút kinh nghiệm chỉ đạo chung trong toàn đảng bộ đối với việc thực hiện Chỉ thị số 01 và Đề án số 01. Vì vậy, sau hội nghị, các cấp ủy cơ sở khẩn trương tổ chức triển khai quán triệt cho cán bộ, đảng viên, viên chức, đoàn viên và người lao động tại cơ quan. Đồng thời xây dựng kế hoạch thực hiện phải cụ thể, sát thực tế tình hình của cơ quan và đề ra phương thức phù hợp, đảm bảo tốt các mục tiêu, yêu cầu mà nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy Khối đề ra./.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X nhiệm kỳ 2015-2020 họp từ ngày 12 đến 14-10-2015 tại TP. Bến Tre, có 342 đại biểu tham dự. Đại hội đã thảo luận, đóng góp và thống nhất các chỉ tiêu Nghị quyết; bầu BCH Đảng bộ tỉnh khóa X, nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 52 ủy viên. Ban Thường vụ gồm 16 ủy viên; bầu Bí thư và 3 Phó Bí thư:
- Ông Võ Thành Hạo - Bí thư Tỉnh ủy.
- Ông Phan Văn Mãi - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy.
- Ông Cao Văn Trọng - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh.
- Ông Trần Ngọc Tam - Phó Bí thư Tỉnh ủy, phụ trách công tác tổ chức cơ sở đảng.
Để giúp đông đảo các tầng lớp nhân dân tìm hiểu và quán triệt những nội dung cơ bản của Nghị quyết, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy biên soạn tài liệu Hỏi - Đáp về một số nội dung cốt lõi của Nghị quyết như sau:
Câu 1: Chủ đề của Đại hội lần thứ X Đảng bộ tỉnh là gì?
Đáp:
Chủ đề Đại hội X là: “Phát huy tinh thần Đồng khởi, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh; tích cực huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.
Tinh thần Đồng khởi là:
+ Tinh thần sáng tạo, mưu trí, dũng cảm, dám nghĩ, dám làm.
+ Huy động lực lượng toàn dân tham gia phong trào hành động cách mạng.
+ Là đồng lòng, đồng loạt, đồng bộ.
+ Ý Đảng và lòng dân gặp nhau - thống nhất ý chí và hành động.
Về ý nghĩa:
+ Phát huy tinh thần Đồng khởi để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
+ Phát huy tinh thần Đồng khởi để huy động mọi nguồn lực, bao gồm cả nhân lực và tài lực, bên trong, bên ngoài thành động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân.
Câu 2: Đại hội X đề ra phương châm hành động xuyên suốt cả nhiệm kỳ như thế nào?
Đáp:
Phương châm của Đại hội X: “Dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, năng động, đổi mới”.
Dân chủ là động lực để phát huy tinh thần Đồng khởi nhằm khơi dậy và tập hợp trí tuệ của cán bộ, ĐV và nhân dân tham gia ý kiến (hiến kế) trong tất cả các lĩnh vực.
Kỷ cương đối với cán bộ, đảng viên vừa phải chấp hành nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, những quy định của Đảng và kỷ luật Đảng; vừa phải chấp hành nghiêm Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế, quy định của cơ quan, đơn vị. Đối với người dân phải chấp hành nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy ước, hương ước của xã, ấp…
Đoàn kết là sự thống nhất, đồng thuận trên cơ sở dân chủ, kỷ cương, hỗ trợ, chia sẻ và phát huy sức mạnh, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng cơ quan, đơn vị, củng cố tình làng nghĩa xóm, đoàn kết để xây dựng xóm, ấp.
Năng động là đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương, mỗi chi bộ, đảng viên và người dân phải nhạy bén, chủ động, linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, không thụ động, trông chờ.
Đổi mới là thay đổi thật sự trong cách nghĩ, cách làm, tránh tình trạng thụ động, trông chờ, ngại khó, phải tích cực suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo để công việc được làm nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Tùy từng ngành, đơn vị, địa phương cần xem xét tình hình của ngành mình, đơn vị mình, cơ quan mình, khu phố, tổ, nhà mình trên cơ sở 5 yếu tố trên xem yếu tố nào còn hạn chế để tập trung thực hiện ngay hay trong từng năm, nhiều năm.
Câu 3: Những kết quả nổi bật đạt được trong 5 năm qua là gì?
Đáp:
5 năm qua, trong bối cảnh tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, trong nước còn gặp nhiều khó khăn nhưng với tinh thần đoàn kết, Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu, phát huy trí tuệ, nội lực, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đạt được những kết quả quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức bình quân chung của cả nước (tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt 7,3%).
Kết cấu hạ tầng KT-XH tiếp tục được đầu tư khá đồng bộ (đến cuối năm 2015 có 166 công trình, dự án hoàn thành đưa vào sử dụng, trong đó một số công trình trọng điểm như: cầu Cổ Chiên, cầu Phong Nẫm, cống Định Trung, cống Sơn Đốc 2, tuyến đê biển Bình Đại, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá cửa Cổ Chiên (Thạnh Phú)…
Đầu tư phát triển đô thị được quan tâm lãnh đạo thực hiện đã công nhận đô thị loại V đối với thị trấn Thạnh Phú, Giồng Trôm, Châu Thành và trung tâm các xã Hương Mỹ (Mỏ Cày Nam), An Thủy (Ba Tri), Phước Mỹ Trung (Mỏ Cày Bắc), Tiên Thủy (Châu Thành). Công nhận đô thị loại IV thị trấn Bình Đại, Ba Tri, riêng thị trấn Mỏ Cày (Mỏ Cày Nam) đang xây dựng kế hoạch phát triển đô thị thị trấn loại IV. TP. Bến Tre đạt 35/49 tiêu chí đô thị loại II.
Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, thực hiện các chính sách an sinh xã hội có nhiều tiến bộ. Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục phát triển sâu rộng gắn với xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh. Tỉnh đã có 9 xã đạt chuẩn nông thôn mới. An ninh chính trị, trật tự xã hội ổn định.
Câu 4: Những hạn chế, yếu kém trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX là gì?
Đáp:
- Kinh tế tuy có bước phục hồi nhưng phát triển chậm, nhiều chỉ tiêu chưa đạt theo Nghị quyết Đại hội IX (GDP bình quân 5 năm đạt 7,3% - nghị quyết 13%), thu nhập bình quân đầu người đạt 34,7 triệu đồng, (đạt 95,7% so với chỉ tiêu Nghị quyết). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 58.103 tỷ đồng (chỉ tiêu Nghị quyết là 70.000 tỷ đồng). Đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn. Nông nghiệp chưa phát huy thế mạnh. Phát triển công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng chưa tạo bước đột phá. Du lịch chưa khai thác hết tiềm năng.
- Chất lượng giáo dục - đào tạo chưa toàn diện, còn một bộ phận học sinh vi phạm đạo đức. Cơ sở vật chất phục vụ khám, chữa bệnh cho người dân còn hạn chế.
- Quốc phòng - an ninh một số nơi còn tiềm ẩn yếu tố gây mất ổn định, tệ nạn xã hội, an ninh nông thôn, tai nạn giao thông chưa được đẩy lùi gây lo lắng trong ND
- Hệ thống chính trị chuyển biến chưa thật đồng bộ; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn yếu; công tác quản lý, điều hành của chính quyền một số nơi còn hạn chế. Còn một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa làm tròn trách nhiệm được giao.
- MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội một số nơi chậm đổi mới; nội dung, phương thức hoạt động còn mang tính hành chính.
Câu 5: Đại hội X đã đề ra mục tiêu tổng quát 5 năm tới như thế nào?
Đáp:
- Tăng cường xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh; kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Thúc đẩy kinh tế phát triển gắn với phát triển văn hóa và xây dựng con người, bảo vệ môi trường; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; làm thay đổi diện mạo đô thị, nông thôn theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại.
- Mục tiêu cao nhất là phấn đấu đến năm 2020, người dân Bến Tre có mức sống ngang bằng với mức bình quân chung của các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Câu 6: Mục tiêu cụ thể trên từng lĩnh vực là gì?
Đáp: Một số chỉ tiêu cụ thể:
- Thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2020 đạt 48,6 triệu đồng.
- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 15.900 tỷ đồng; tăng thu bình quân 12,7%/năm.
- Tổng huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 80.200 tỷ đồng.
- Kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 5.660 triệu USD, tăng bình quân 15,5%.
- Xây dựng TP. Bến Tre đạt tiêu chí đô thị loại II; các thị trấn Ba Tri, Bình Đại, Mỏ Cày đạt tiêu chí đô thị loại IV và 20 trung tâm xã đạt tiêu chí đô thị loại V; có 45 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới, các xã còn lại đạt ít nhất 10 tiêu chí; phấn đấu huyện Chợ Lách cơ bản đạt chuẩn huyện nông thôn mới.
- Huy động trẻ trong độ tuổi nhà trẻ trên 10%, mẫu giáo 80%, tiểu học 99,9%, trung học cơ sở 98%; có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học và tương đương, 240 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020.
- Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 10%; đạt 9,37 bác sĩ/1 vạn dân, 26,72 giường bệnh/1 vạn dân; bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 1,5%/năm; tạo thêm việc làm mới cho 18.000 lao động/năm; xuất khẩu 500 lao động/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 60 - 65%; trong đó, lao động qua đào tạo nghề đạt 30% vào năm 2020.
- Đến năm 2020, tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 95%, nước sạch đạt 55%.
- Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; hạn chế đến mức thấp nhất phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội, kéo giảm tai nạn giao thông cả 3 mặt; giải quyết cơ bản các vụ khiếu kiện kéo dài, không để xảy ra điểm nóng, khiếu kiện đông người, vượt cấp.
- Xây dựng hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; bộ máy chính quyền hoạt động năng động, hiệu quả; phát huy tốt vai trò của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, đổi mới công tác dân vận. Phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ kết nạp mới từ 8.000 - 8.500 đảng viên.
Câu 7: Trong nhiệm kỳ tới, Đại hội đề ra nhiệm vụ, giải pháp như thế nào để kinh tế phát triển theo hướng bền vững?
Đáp:
- Lĩnh vực nông nghiệp tập trung phát triển kinh tế vườn và kinh tế biển.
+ Đối với kinh tế vườn, Nhà nước hướng dẫn và khuyến khích nông dân ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, lựa chọn cây, con giống mới năng suất, chất lượng cao. Vận động nông dân cải tạo vườn tạp, vườn kém hiệu quả, giới thiệu cây, con giống mới phù hợp với thổ nhưỡng để phát triển sản xuất. Người dân phải tích cực tham gia tổ liên kết sản xuất, hợp tác xã kiểu mới; phát triển chăn nuôi gắn với bảo vệ môi trường.
+ Đối với kinh tế biển nâng cao hiệu quả đánh bắt thủy sản; Nhà nước tiếp tục đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, đảm bảo thích ứng với biến đổi khí hậu. Vận động ngư dân ứng dụng khoa học, công nghệ vào nuôi trồng thủy sản, phát triển nuôi trồng thủy sản phải theo quy hoạch của Nhà nước.
- Lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
Tỉnh sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng hạ tầng Khu công nghiệp Phú Thuận (Bình Đại), Cụm công nghiệp Phú Hưng (TP. Bến Tre), Cụm công nghiệp Phong Nẫm (Giồng Trôm), An Đức (Ba Tri). Chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, làng nghề tiểu thủ công nghiệp.
Trách nhiệm người dân phải tích cực hưởng ứng tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc nâng cấp, mở rộng cầu, đường, nhất là các khu công nghiệp.
Câu 8: Làm thế nào để sớm hoàn thiện kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội?
Đáp:
+ Tỉnh sẽ tập trung đầu tư các công trình, cụ thể như: Nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 57, Quốc lộ 60, Đường tỉnh 883, Đường ô-tô đến trung tâm xã An Điền - Thạnh Hải - Mỹ An; xây dựng các tuyến tránh thị trấn ở một số huyện (Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc). Các tuyến giao thông chính vào trung tâm xã đạt chuẩn nông thôn mới; mời gọi đầu tư các dự án: đường Đông - Tây (TP. Bến Tre), Khu đô thị mới An Khánh (Châu Thành), đề nghị xây dựng cầu Rạch Miễu 2, hoàn thành dự án cung cấp nước sạch cho khu vực Cù lao Minh và các huyện biển.
+ Tỉnh sẽ thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng nông thôn mới để đạt mục tiêu 45 xã vào cuối nhiệm kỳ; quyết tâm xây dựng huyện Chợ Lách cơ bản đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2020.
+ Trách nhiệm của người dân phải tích cực tham gia các phong trào hành động cách mạng ở địa phương, nhất là tham gia thực hiện các tiêu chí xã nông thôn mới.
Câu 9: Những nhiệm vụ và giải pháp gì để phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội; an ninh - quốc phòng?
Đáp:
+ Thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Phấn đấu có 100% xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế, 100% trạm y tế và phòng khám đa khoa đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất; duy trì 100% trạm y tế xã có bác sĩ để thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
+ Xây dựng con người phát triển toàn diện hướng đến chân, thiện, mỹ, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.
+ Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công; hỗ trợ các đối tượng bảo trợ Xã hội. Khuyến khích Xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao.
+ Nâng cao nhận thức và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu cho các tổ chức, người dân trong tỉnh. Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.
+ Đẩy mạnh xã hội hóa công tác xử lý ô nhiễm môi trường; xử lý tốt rác thải tại các khu vực đô thị. Đảm bảo vệ sinh môi trường tại khu vực nông thôn.
+ Nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ nhân dân tự quản; thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm kiềm chế, kéo giảm tai nạn giao thông, giữ vững an ninh nông thôn.
Người dân phải tích cực tham gia giữ gìn an ninh trật tự xóm ấp, khu phố.
Nghị quyết cũng đề ra các nhiệm vụ và giải pháp để tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, UBMTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền để phục vụ nhân dân tốt hơn; nâng cao hiệu quả công tác vận động nhân dân để tập hợp sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân.
Nguồn. http://www.baodongkhoi.com.vn ngày 08/01/2016
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy biên soạn