Trước khi đi về cõi vĩnh hằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân bản Di chúc của Người, đó là những lời chỉ dẫn vô cùng quan trọng của Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, chứa đựng các giá trị phổ quát, bao trùm mọi đời sống xã hội, đó là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền; tầm nhìn chiến lược về con người; về niềm tin son sắt thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ; về đoàn kết quốc tế... và một trong những quan điểm nổi bật và xuyên suốt trong Di chúc chính là lời nhắc nhở của Người về nhân dân, tất cả vì quyền lợi cho nhân dân là mục tiêu cuối cùng, là lý tưởng cao đẹp mà trong bản Di chúc Người yêu cầu toàn Đảng ta phải hướng đến.
Bản Di chúc nổi bậc tư tưởng lý luận sâu sắc về vai trò của nhân dân, sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi trọng, đề cao vai trò, sức mạnh của nhân dân, xác định “dân là gốc”, “dân là chủ”, là cội nguồn của cách mạng, là nguồn lực, sức mạnh to lớn, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì nhận thức rõ vị trí, vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân, nên trong Di chúc, Người nhấn mạnh “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.” [1] Bởi, Người luôn tin tưởng vào vai trò của nhân dân, phát huy sức mạnh và phẩm chất tốt đẹp của nhân dân.
Nhận thức được sức mạnh to lớn của nhân dân, vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần chăm lo cho nhân dân, trong Di chúc, Người viết “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Người căn dặn lãnh đạo Đảng, Nhà nước phải xác định chiến lược con người là một mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh, “Nhân dân lao động ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng” [2] . Do vậy, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”, để xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, để đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân.
Không những thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành những lời căn dặn cuối cùng của mình đối với từng đối tượng cụ thể trong xã hội: Những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), liệt sĩ; gia đình thương binh, liệt sĩ; những người trẻ tuổi đã tham gia kháng chiến; phụ nữ; nông dân…, Người còn quan tâm đến nạn nhân của chế độ cũ. Di chúc chứa đựng tình cảm thiêng liêng, bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với con người, mọi giai cấp, tầng lớp và mọi đối tượng. Đây vừa đạo lý, vừa là triết lý sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi lẽ, mục tiêu cuối cùng của Người và Đảng ta là phục vụ con người, phục vụ nhân dân.
Trong Di chúc, để phát huy vai trò của nhân dân Người còn yêu cầu trách nhiệm rất lớn lao của Đảng đối với nhân đân là thể hiện đạo lý, bản chất vì nước, vì dân của Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Nhiệm vụ của Đảng là làm cho dân tộc được độc lập, đồng bào được sung sướng, tự do. Đảng phải đề ra Cương lĩnh, đường lối, chính sách, chiến lược, sách lược và kế hoạch đúng đắn để thực hiện mục tiêu cao cả là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau khi giành toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của Đảng là lãnh đạo toàn dân xây dựng lại đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.” “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.”
Thấy rằng, xuyên suốt từ dòng đầu tiên cho đến dòng cuối cùng bản Di chúc với nội hàm sâu sắc: Đó là vì nhân dân. Vì thế, ngay phần mở đầu của Di chúc, Người nói: “Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?” [3] Người thể hiện sự lo lắng, băn khoăn, lo ngại về sức khỏe của Người trong quá trình cống hiến cho cách mạng, Tổ quốc và nhân dân. Mặc dù bày tỏ sự băn khoăn nhưng câu nói ấy vẫn mang một tinh thần cống hiến, lòng trung thành, sự hy sinh của Người với cách mạng, Tổ quốc và nhân dân. Đến cuối bản Di chúc, Người viết về những việc riêng, nhưng phần về việc riêng ấy không phải là dành cho cá nhân của Người mà là Người để lại muôn vàng yêu thương cho nhân dân, Người đề nghị: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.” Ngay cả trước khi đi xa Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn một lòng lo cho dân, sợ dân tốn kém, lãng phí tiền bạc vì Người. Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” [4]. Mặc dù Người nói là việc riêng nhưng càng phản ánh sâu sắc giá trị, phẩm chất đạo đức cao quý của một con người, một vị cha già dân tộc suốt đời chỉ biết phấn đấu hy sinh vì dân, vì nước.
55 năm trôi qua, kể từ ngày công bố Di chúc của Người toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã nhận thức sâu sắc và quyết tâm triển khai thực hiện nghiêm túc những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện mong ước của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu của “vì độc lập, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân”. Thực hiện theo Di chúc, qua các kỳ đại hội, Đảng ta vẫn luôn khẳng định vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân trong đấu tranh giành độc lập, tự do trước đây và trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước nhanh, bền vững ngày nay. Dấu ấn lịch sử tại Đại hội VI nhắn mạnh những bải học lớn, đặc biệt là bài học trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Có như thế mới động viên được toàn dân, dựa vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn trong Di chúc.
Tổng kết quá trình đổi mới, Đại hội XII của Đảng (tháng 01/2016) đã nêu rõ 5 bài học, trong đó có bài học dựa vào sức mạnh của nhân dân: “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đến Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giảm sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đồi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Kế thừa tinh thần ấy, Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân đân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên dịnh, kiên trì theo đuổi” [5] . Như vậy, những quan điểm về vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân là bài học kinh nghiệm, thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toản Đảng, toàn dân trong công cuộc đổi mới đất nước, được lan tỏa từ giá trị tư tưởng, lý luận sâu sắc trong Di chúc của Bác Hồ. Để thực hiện ngày càng có hiệu quả những giá trị sâu sắc về nhân dân trong Di chúc, hiện nay chúng ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, thực hiện nghiêm các quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở, theo phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng.
Thứ hai, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nồng cốt, nhân dân làm chủ.
Thứ ba, đề cao vai trò chủ thể của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần, trách nhiệm trong tự phê bình và phê bình; phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liên chính, chí công vô tư. Đặc biệt phải đấu tranh kiên quyết, nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Thứ tư, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Cấp ủy đảng các cấp cần tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng, xây dựng đất nước thịnh vượng, hùng cường, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh đó, Đảng phải thường xuyên chăm lo, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân; cấp ủy đảng các cấp cần quán triệt và thực hiện nhiêm túc hơn nữa, hiệu quả hơn nữa tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
55 năm thực hiện Di chúc của Hồ Chí Minh là một hành trình đầy ý nghĩa, chứng tỏ sự trường tồn của tư tưởng, đạo đức và phong cách lãnh đạo của Người. Di chúc của Người tỏa sáng giá trị dân tộc và thời đại, thấm đậm văn hóa và nhân văn Hồ Chí Minh, mãi mãi là ngọn cờ quy tụ sức mạnh toàn dân tộc, đã, đang và sẽ tiếp thêm sức mạnh to lớn cho Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam./.
-----------------------------------------------
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.623
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.612
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.618
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.623
[5] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ ghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, HN, 2022, tr21-22.