Kỷ niệm 114 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3/1910-08/3/2024), 1983 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3 và 77 năm Ngày thành lập Trường Đảng tỉnh Bến Tre (Trường Chính trị Bến Tre) (07/3/1947-07/3/2024)!

Thứ ba, 19 Tháng 3, 2024 - 10:35

Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

1. Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai mươi năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa.
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Có thể xem đây là mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc trưng trong mô hình vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù của dân tộc, có tính đến các đặc điểm của thời đại. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và cụ thể hoá.

2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

2.1. Quan niệm về thời kỳ quá độ

Là thời kỳ đan xen giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, còn có điều kiện phục hồi trở lại. Cái mới thì mới ra đời chưa đủ thực lực chiến thắng hoàn toàn cái cũ.
Bản chất nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tính đan xen giữa cái cũ và cái mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tính chất cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gay go, phức tạp, lâu dài nhắc nhở chúng ta không được chủ quan, nóng vội, duy ý chí.

*  Tính tất yếu khách quan

- Theo C.Mác, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Kiểu quá độ của C.Mác là quá độ về chính trị. Quá độ trực tiếp chỉ cần thay đổi kiến  trúc thượng tầng của giai cấp tư sản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là có ngay những điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-  Theo V.I. Lênin, về lý luận, không còn nghi ngờ gì nữa rằng giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa phải có một thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại và chủ nghĩa xã hội mới phát sinh.
Kiểu quá độ của V.I. Lênin là quá độ toàn diện, gián tiếp. Vì từ các nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội có xuất phát điểm thấp.
-  Đảng Cộng sản Việt Nam: Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ sau Đại hội VI đã cụ thể hơn. Chia thời kỳ quá độ thành nhiều chặng đường, nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ; bắt đầu thời kỳ quá độ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền bắt tay xây dựng chế độ xã hội mới; nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ là xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của nền công nghiệp cho chủ nghĩa xã hội nhằm cải tạo nông nghiệp tức là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; độ dài thời kỳ quá độ tùy thuộc vào việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ; kết thúc thời kỳ quá độ khi xây dựng xong cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản nước ta có nền công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Đến giữa thế kỷ XXI nước ta có nền công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

* Xung quanh vấn đề “bỏ qua”

Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng bỏ qua phải có sự giúp đỡ của các nước tiên tiến đi trước. Xung quanh vấn đề “bỏ qua” cần nhận thức đúng đắn và toàn diện đó là:
Bỏ qua cái gì? Bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng.
Bỏ qua như thế nào? Bỏ qua không có nghĩa là phủ định sạch trơn mà phải có tính kế thừa nghĩa là phải kế thừa sự phát triển khoa học công nghệ; lực lượng sản xuất; khoa học quản lý; cơ sở hạ tầng vì đây là những thành tựu của nhân loại giai cấp tư sản đã sử dụng trước.
Bỏ qua được không? Từ thực tế tình hình trên cho phép chúng ta khẳng định Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là đi vào giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh thế giới và tình hình trong nước.

* Về bối cảnh thế giới

Xu thế toàn cầu hóa giúp cho các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau để chuyển giao công nghệ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, thu hút đầu tư, tăng cường xuất nhập khẩu, tích lũy ngoại tệ, tăng nguồn vốn, nguồn dự trữ quốc gia.
Vai trò ngày càng quan trọng của kinh tế tri thức biểu hiện trong từng sản phẩm, hàm lượng trí tuệ cao với những công nghệ hiện đại như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ điện tử, công nghệ vật liệu mới giúp cho các nước đang phát triển ứng dụng trong quá trình rút ngắn dần khoảng cách giữa các quốc gia, dân tộc.
Thời đại ngày nay vẫn là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

* Tình hình trong nước

Có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có đường lối đúng; ý Đảng hợp lòng dân, dân tin Đảng.
Có đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng của dân tộc, xứng đáng là đày tớ của nhân dân.
Nhân dân Việt Nam đồng thuận một lòng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và văn minh trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta có lợi thế so sánh về vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên thiên nhiên. Đặc biệt là nguồn nhân lực trí tuệ cao thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ.

2.2. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Xuất phát điểm lên chủ nghĩa xã hội còn quá thấp, từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chính với lực lượng sản xuất thấp kém, quan hệ sản xuất manh mún, đại đa số là nông dân mang nặng tư tưởng nho giáo, phong kiến, tiểu nông.

Hậu quả chiến tranh nặng nề, vừa khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa phát triển kinh tế, vừa thực hiện chính sách xã hội.
Các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp nhất là tệ quan liêu, tham nhũng làm mất lòng tin của dân đối với chế độ xã hội mới.
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức là nguy cơ của một đảng cầm quyền.
Chủ nghĩa đế quốc và âm mưu diễn biến hòa bình hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội với các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc...là lực cản cho quá trình phát triển của dân tộc.

Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam tạm thời chia hai miền: Miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; miền Bắc vừa bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa làm hậu phương lớn cho cách mạng miền Nam... Đảng ta xác định rõ: Đặc điểm lớn nhất của miền Bắc, xét về kinh tế, là từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Những thành tựu của miền Bắc trong những năm chống Mỹ, cứu nước đã thực sự xứng đáng là hậu phương lớn của miền Nam và có vai trò quyết định nhất đến toàn bộ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước: Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Vận dụng những quan điểm cơ bản mà V.I.Lênin đã nêu ra về đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở “những nước tiểu nông”, Đảng ta và nhân dân ta đã có những thành quả bước đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Nhưng khoảng thời gian 1975-1985, chúng ta đã phạm một số sai lầm, trong đó có biểu hiện chủ quan, nóng vội, giản đơn, nhất là về quản lý kinh tế: Đó là quá chú trọng hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể một cách hình thức, thực hiện quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, hành chính bao cấp của Nhà nước; nhận thức chưa đúng quan điểm của V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế đan xen nhau,...trong thời kỳ quá độ, do đó đã biến chế độ sở hữu toàn dân và tập thể trở nên trừu tượng, hình thức bề ngoài, nhiều tư liệu sản xuất chung của xã hội, nhất là đất đai trở nên không có chủ cụ thể...Đó là một trong những nguyên nhân làm triệt tiêu các động lực, các tiềm năng của toàn dân ta, của đất nước ta và không phát huy hết nội lực, không tranh thủ được sự hợp tác quốc tế. Vì vậy, kinh tế - xã hội đã lâm vào trì trệ, khủng hoảng...

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đánh dấu sự mở đầu chính thức công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định đúng đắn, bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế. Đổi mới toàn diện nhưng có trọng điểm đúng: Trên cơ sở ổn định, phát triển kinh tế, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, đồng thời và từng bước đổi mới hệ thống chính trị để phát triển đất nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta đã có nhận thức ngày càng rõ hơn về “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, có thể thấy rõ những bước cụ thể hoá về phát triển “bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Đường lối đổi mới của Đảng ta đã khẳng định đó là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Đến Đại hội IX, Đảng ta nhận thức rõ hơn nữa: “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.

2.3. Nội dung của thời kỳ quá độ ở nước ta

Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, cho nên thời kỳ quá độ ở nước ta rất lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa con đường tư bản chủ nghĩa và con đường xã hội chủ nghĩa, đấu tranh quyết liệt chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.

Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn xã hội.

Trong giai đoạn hiện nay, để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.

2.4. Những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Thứ nhất, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng ta lãnh đạo làm nền tảng và là nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền dân chủ, làm chủ, quyền lực của nhân dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi tội phạm và kẻ thù của nhân dân.

Thứ hai, phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân về vật chất và tinh thần.

Thứ ba, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu và tính chất của sự phát triển lực lượng sản xuất qua nhiều hình thức đa dạng về sở hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất, hợp tác sản xuất kinh doanh trong nước và quốc tế. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho cả nền kinh tế quốc dân; từng bước phát triển kinh tế tri thức một cách phù hợp, có hiệu quả và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc chủ đạo.

Thứ tư, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của đất nước. Tiếp tục kế thừa và phát huy tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa có trí tuệ, đạo đức, lối sống, phong cách, có văn hoá, văn minh; có thể chất và đời sống thẩm mỹ lành mạnh. Đấu tranh loại trừ các biểu hiện phản văn hoá, văn minh, phi đạo lý, đạo đức...trái với giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và của nhân loại tiến bộ, trái với mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Thứ năm, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập hợp mọi lực lượng xã hội tán thành và phấn đấu vì mục tiêu chung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, độc lập và cùng có lợi với các nước, các tổ chức quốc tế.

Thứ sáu, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, gắn chặt kinh tế với quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Thứ bảy, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam theo phương châm: Phát triển kinh tế là trọng tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt để Đảng ta luôn luôn trong sạch, vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín đáp ứng vai trò lãnh đạo xã hội trên mọi lĩnh vực trước những yêu cầu ngày càng cao hơn với những vận hội mới lẫn những thử thách mới.

Tóm lại, nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn và triệt để về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những thuận lợi và khó khăn mà chúng ta với quyết tâm chính trị cao phải phấn đấu vượt qua, tránh được căn bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
Từ những vấn đề lý luận đã nêu trên, thực tiễn của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo hơn 25 năm qua với những thành tựu hết sức khả quan cho phép chúng ta khẳng định dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự đồng thuận của nhân dân, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất định kết thúc thắng lợi.
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết đồng thuận một lòng xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh và văn minh trên con đường quá độ đi lên CNXH. Làm cho vị thế của Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Dân tộc Việt Nam bước đến đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới./.
Nguyễn Thành Phương
Khoa LLMLN, TTHCM

Tin khác