Trước sự tác động một cách nghiệt ngã của mặt trái kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, đặc biệt là đội ngũ cán bộ nói riêng như tinh thần Nghị quyết TW4 khóa XI đã khẳng định: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc. Trước tình hình trên, nhận thức lại vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay là một việc làm hết sức cần thiết.
Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta tư tưởng của Người mãi mãi soi đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam mà đặc biệt là tư tưởng của Người về vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ cho đến nay vẫn con nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, giá trị lịch sử của nó.
1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920; là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930; là cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đồng thời là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Về vị trí của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là dây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, “là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước, đoàn thể phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ là do nhân dân giao cho.
Về vai trò của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém. Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta.
Luận điểm khái quát nhất của Người về vị trí, vai trò của cán bộ là: Cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành, là công bộc của nhân dân.
2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác cán bộ đối với cách mạng Việt Nam
Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong những công tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định thành công tới toàn bộ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt công tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi, và ngược lại. Với quan điểm đó, cả cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, huấn luyện, thử thách, rèn luyện, sử dụng, đãi ngộ. Sau năm 1920, khi đã trở thành người cộng sản, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của ĐCS Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tìm kiếm những thanh niên Việt Nam yêu nước, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện họ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; gửi những người ưu tú hoặc có nhiều triển vọng tốt vào đạo tại các trường của Trung Quốc và của Quốc tế Cộng sản. Từ khi thành lập ĐCS Việt Nam đầu năm 1930 trở đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú ý huấn luyện và xây dựng lực lượng cán bộ. Chính do như vậy, cho nên Đảng đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng CNXH ở miền Bắc.
3. Yêu cầu đối với cán bộ cách mạng
Yêu cầu về tư cách. Với ba nội dung chủ yếu nhất sau đây có tính bao quát toàn bộ các mặt của nó mà Hồ Chí Minh hay nêu:
Một là, Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng.
Hai là, Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra nguyên tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”.
Trong việc chống chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lợi ích cá nhân, miễn là lợi ích cá nhân của cán bộ là phù hợp với lợi ích của Đảng, của cách mạng. Trong cuộc sống, nhiều khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích của Đảng, nhưng cũng có lúc không, vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng”; đảng viên và cán bộ “phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết…Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng””
Ba là, Người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là tấm gương sáng về đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ các dân tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu cán bộ không có một đời tư trong sáng thì sẽ không thuyết phục, vận động được nhân dân trong các phong trào cách mạng. Người cán bộ, ngoài việc phải hoàn thành tốt công việc chung của Đảng đã được phân công, lại phải còn là một thành viên tốt của gia đình, là một người công dân tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người chung quanh trong cùng bản làng, phum, sóc, thôn xóm…
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực.
Trước hết, cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu. Đây cũng chính là quan điểm xuất phát, một yêu cầu có tính chất tiên quyết đối với cán bộ cách mạng. Không ít lần, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”, người cán bộ cách mạng không phải là người “làm quan cách mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ là để “thăng quan tiến chức”, không phải như dưới thời thực dân-phong kiến “một người làm quan cả họ được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời thực dân - phong kiến”, v.v. Người cán bộ phải tận tụy với sự nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Trung thành ở đây trước hết đòi hỏi cán bộ phải hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và kể cả khi thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì không kiêu căng, chủ quan, tự mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ, trở ngại thì không hoang mang, dao động; “vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi”; phải luôn luôn có ý thức và hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc. Trung thành với cách mạng là phải hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng hết sức tránh.
Đồng thời, về năng lực, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Muốn thế, phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống, ngoài yêu cầu về việc đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng đắn, còn có việc phải tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi. Không như thế thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể nhân dân chỉ nằm trên giấy.
Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu đối với cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ Đảng cầm quyền càng đặc biệt quan trọng hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán bộ, bằng hành động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục; đừng có mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu dân, kính dân; phải việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Cán bộ phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học suốt đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi (Nho giáo); học, học nữa và học mãi (V.I.Lênin)… đó là những điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào trong cuộc sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, ngày nay không thể lãnh đạo chung chung được nữa, rằng, chỉ có lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tri thức nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời chăm chỉ học tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn còn học; học ở nhà trường, học trong cuộc sống, và quan niệm của Hồ Chí Minh học không phải là để có bằng cấp, để thăng chức.
Cán bộ phải có phong cách tốt. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn có phong cách công tác tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái, ham chuộng hình thức, phô trương cho oai, làm đại khái, qua loa. Phải sâu sát, tỷ mỉ; nắm việc lớn, phải giải quyết bắt dầu từ những việc cơ bản, không cận thị (tức là chỉ nhìn gần mà không nhìn xa trông rộng được), có đầu óc quan sát; phải chân đi, miệng nói, tay làm, không như thế thì đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo công văn nhưng công việc không chạy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều này đúng như điều tất yếu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu: Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra, do đó, Đảng phải thường xuyên phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, và đó chính là quy luật phát triển của một Đảng Mác – Lênin, một Đảng chiến đấu dưới lá cờ của chủ nghĩa cộng sản, vì một xã hội tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người.
Riêng về phong cách công tác của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới các vấn đề chủ yếu: Sửa cách lãnh đạo về công tác cán bộ; biết chọn trình tự ưu tiên công việc; Thường xuyên tổng kết công tác; phải luôn luôn có sáng kiến; sâu sát, gần gũi nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ; có lãnh đạo chung, nhưng có chỉ đạo điểm.
4. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Phạm vi của vấn đề công tác cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng, xin nêu chủ yếu một số nội dung sau đây:
- Hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn và sử dụng đúng cán bộ.
Đây là yêu cầu xuất phát để tiến hành các mặt khác của công tác cán bộ. Nếu không đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ thì không thể đề ra chính sách cán bộ một cách đúng đắn được. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi lần xem xét lại cán bộ, một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị lòi ra. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ phải có những yêu cầu riêng. Đồng thời, hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, đánh giá một cách hoàn toàn công minh, khách quan. Yêu cầu về mặt này cho chúng ta thấy không thể đem cái thước đo chất lượng của cán bộ vùng thành thị để đo chất lượng cán bộ vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; không thể đem thước đo chất lượng cán bộ lĩnh vực này vào đo chất lượng cán bộ ở lĩnh vực khác.
Người làm công tác cán bộ khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết mình”, tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm của mình, để “mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”, như thế mới không phạm những căn bệnh: 1. Tự cao tự đại; 2. Ưa người ta nịnh mình; 3. Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người; 4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu phạm một trong bốn bệnh đó thì người làm công tác cán bộ cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xem xét một người cán bộ không nên chỉ xem xét mặt bên ngoài, xem xét qua một việc, mà phải xem xét kỹ cả toàn bộ công việc của người cán bộ đó. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: trong thế giới, cái gì cũng biến hoá, tư tưởng con người cũng vậy, cho nên xem xét cán bộ phải toàn diện, xem xét cả một quá trình công tác của người cán bộ. Có người trước đây có sai lầm nhưng nay đã sửa chữa được, có người nay không có sai lầm nhưng sau lại mắc sai lầm, có người trước đây đi theo cách mạng nay lại phản cách mạng, ngược lại có người trước đây không theo cách mạng nay lại tham gia cách mạng… nghĩa là quá khứ, hiện tại, tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau. Do đó, xem xét cán bộ phải xem xét cả lịch sử của họ, toàn bộ công việc của họ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt. Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”.
Phải “khéo dùng cán bộ”, “dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình rằng, thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người, thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành thử hai người đều lúng túng, nếu biết tùy tài mà dùng người thì hai người đều thành công.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình nghiêm khắc tệ “kéo bè kéo cánh” trong công tác cán bộ. Tệ này phát sinh từ bệnh bè phái, ai hợp với mình thì thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Khuyết điểm này, như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra, nó rất tai hại, nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình, làm hại sự thống nhất, nó làm mất sự thân ái, đoàn kết đồng chí, gây ra những mối nghi ngờ…
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm toàn diện khi xem xét để đề bạt, bổ nhiệm cán bộ: Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo, như thế rất có hại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những bệnh sau đây:
1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, vì cho họ tốt hơn người bên ngoài;
2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực;
3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm dùng cán bộ đúng với 5 nội dung:
- Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể có thái độ và tinh thần chí công vô tư đối với cán bộ, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi.
- Phải có tinh thần rộng rãi mới có thể gần gụi với những người mà mình không ưa.
- Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những cán bộ còn kém, giúp cho họ tiến bộ.
- Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây mà cách xa cán bộ tốt.
- Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, cán bộ mới vui lòng gần gụi mình.
- Phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương, hẹp hòi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hay nhấn mạnh đến việc chống cánh hẩu, họ hàng, thân quen trong công tác cán bộ nói chung cũng như trong chính sách cán bộ nói riêng. Người phê bình một cách nghiêm khắc việc ưa kẻ nịnh người làm công tác cán bộ, tìm cách lợi dụng chức quyền để đưa anh em, họ hàng, bạn bè thân quen vào chức này chức nọ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ tác hại của bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương cục bộ. Theo Người, những bệnh chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, v.v. đều do bệnh hẹp hòi mà ra.
Trong vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đề cập việc kết hợp cán bộ tại chỗ với cán bộ do cấp trên điều về. Người phê bình do hẹp hòi mà cán bộ cấp trên phái đến và cán bộ địa phương không đoàn kết chặt chẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phải chữa cho “tiệt nọc” bệnh hẹp hòi, khắc phục kèn cựa, mất đoàn kết giữa cán bộ trên điều về và cán bộ tại chỗ. Người viết: “Phải biết rằng: chỉ có hai hạng cán bộ đó đoàn kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ địa phương ngày càng thêm nhiều, thì nền tảng của Đảng mới phát triển vững vàng. Cán bộ phái đến, trình độ thường cao hơn, kinh nghiệm nhiều hơn.
Nhưng cán bộ địa phương lại biết rõ nhân dân, quen thuộc công việc hơn. Hai hạng cán bộ phải giúp đỡ nhau, bồi đắp nhau, thì công việc mới chạy”. Theo quan điểm của Người, tốt nhất là kiếm cán bộ tại chỗ, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng cán bộ tại chỗ; song nếu không có hoặc thiếu thì điều động cán bộ ở nơi khác về. Chúng ta thấy rằng, đây chính là thực hiện quan điểm coi Đảng ta là một cơ thể sống, đội ngũ cán bộ là một đội ngũ thống nhất, cán bộ có thể và cần phải được bố trí công tác ở bất cứ địa bàn nào miễn là người cán bộ đó có đủ đức và tài, có tính đến đặc điểm, yêu cầu của từng vùng, từng lĩnh vực.
Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa cán bộ mới và cán bộ cũ cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập không ít trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ tính tất yếu, tự nhiên, hợp quy luật của vấn đề này, khi cho rằng: “Số cán bộ cũ có ít, không đủ cho Đảng dùng. Đồng thời, theo luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải chết. Nếu không có cán bộ mới thế vào, thì ai gánh vác công việc của Đảng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích rằng, cán bộ mới “vì công tác chưa lâu, kinh nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ cũ: họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng kiến hơn”. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo, dìu dắt, yêu mến cán bộ mới…Hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau…Cán bộ cũ thường giữ địa vị lãnh đạo. Vì vâỵ, nếu từ nay, quan hệ giữa hai hạng cán bộ ấy không ổn thoả, thì cán bộ cũ phải chịu trách nhiệm nhiều hơn. Như thế mới chữa khỏi bệnh hẹp hòi”.
- Phải chú trọng đến công tác đề bạt cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý việc phải xem xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt rồi thì phải theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra người cán bộ đó; nếu không như thế thì hỏng việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rõ: cất nhắc cán bộ không nên làm theo lối giã gạo, nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi cất nhắc rồi thì không giúp đỡ họ, khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất nhắc lên; một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ quan điểm quý trọng cán bộ khi cho rằng: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong công tác cán bộ, phải chú ý việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đây là công việc gốc của Đảng khi đặt trong mối quan hệ với nội dung vai trò của cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một công việc quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên. Ở đây, có mấy điểm đáng chú ý mà Hồ Chí Minh đã nêu:
- Học phải thiết thực, “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trước hết là về lý luận chính trị. Người phân tích lý luận là do kinh nghiệm cách mạng trong nước và thế giới được tổng kết, khái quát thành những bài học, quy luật. Trình độ lý luận của Đảng ta còn thấp kém, cán bộ, đảng viên phải học tập lý luận để tránh những thất bại có thể xảy ra. Người nhấn mạnh và lấy làm đề từ cho cuốn Đường Cách mệnh luận điểm nổi tiếng sau đây của Lê-nin: "Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiên phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong".
Trong Diễn vǎn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Nguyễn ái Quốc ngày 7-9-1957, Người nói: "Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình"
Người phê phán một bộ phận cán bộ chỉ biết suốt ngày vùi đầu vào công việc sự vụ mà coi thường việc học tập lý luận hoặc thiếu niềm tin vào hiệu quả của công tác lý luận. Theo Người, sau khi lựa chọn cán bộ "cần phải dạy bảo lý luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có một mắt sáng, một mắt mù"
Đào tạo cán bộ không chỉ là việc dạy và học lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Hồ Chí Minh chỉ ra nội dung đào tạo, huấn luyện cán bộ phải toàn diện. Tại Hội nghị toàn quốc về công tác huấn luyện và học tập ngày 6-5-1950, Người đặt vấn đề: Huấn luyện ai ? Huấn luyện gì ? Ai huấn luyện ? Huấn luyện thế nào ? và chỉ rõ nội dung huấn luyện bao gồm nhiều kiến thức về lý luận, vǎn hóa, công tác, chuyên môn. Ngay từ nǎm 1950, Người đã nói về những phẩm chất cần có của người cán bộ lúc đó là có vǎn hóa, phải am hiểu lịch sử nước nhà và thế giới, đọc thông, viết thạo một ngoại ngữ, có trình độ chuyên môn sâu, lãnh đạo ngành nào phải giỏi chuyên môn ngành ấy.
Người nhắc nhở nội dung huấn luyện phải thiết thực, chu đáo và đáp ứng yêu cầu cách mạng, cụ thể là: "Huấn luyện cán bộ là cốt để cung cấp cán bộ cho các ngành công tác: Đoàn thể (lúc bấy giờ là Đảng - người trích), Mặt trận, Chính quyền, Quân đội. Các ngành công tác như là người tiêu thụ hàng. Ban huấn luyện như là người làm ra hàng. Làm ra hàng phải đúng với nhu cầu của người tiêu thụ. Nếu người ta cần nhiều xe mà mình làm ra nhiều bình tích thì hàng ế".
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ giáo: học phải kết hợp với hành, nếu chỉ hiểu lý thuyết suông thì cũng vô nghĩa. Người nói: "hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ǎn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác"./.
Thạc sĩ Nguyễn Thành Phương
Khoa LMLN, TT HCM