Nghiên cứu trao đổi

Ngày Đăng :
Nguyễn Thị Ninh
Khoa Xây dựng Đảng
 

Ngay từ trong các văn kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thư gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc (12/1946), đã long trọng tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Đồng thời, Người khẳng định: “Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”. Song, trong hoàn cảnh của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Việt Nam không có điều kiện để thực hiện công cuộc hội nhập quốc tế theo tư tưởng trên. Nhưng đó đã là tư tưởng quan trọng đặt cơ sở cho sự hình thành chủ trương, đường lối hội nhập quốc tế của nước ta sau này.

Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi bắt đầu đổi mới, tư duy về hội nhập quốc tế dần phát triển, được triển khai trong thực tiễn và đạt những thành tựu nhất định trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta, mặc dù lúc đó chưa đề cập đến khái niệm "hội nhập" nhưng Đại hội đã nhận định "đóng cửa hay khép kín nền kinh tế nội địa sẽ là nguy cơ tụt hậu". Từ đó, Đại hội chủ trương "tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ thuật", tham gia rộng rãi vào sự phân công hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi.

Có thể nói, nhận thức của Đảng ta về tình hình mới và việc đề ra chủ trương trên, tư duy hội nhập quốc tế đã bắt đầu hình thành. Tư duy này được củng cố thêm bằng quyết định của Đại hội Đảng lần thứ VII "thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”.

Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, khái niệm "hội nhập" được chính thức đề cập cùng với chủ trương "xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới" hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực.

Sau khi đã hội nhập ở hai cấp độ (khu vực và liên khu vực), Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đề ra chủ trương "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững" và tháng 11/2001 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07-NQ/TW "Về hội nhập kinh tế quốc tế". Việc triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW đã phản ánh một nấc thang cao hơn trong nhận thức và tư duy về hội nhập quốc tế của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

Với những thành công đạt được trong việc triển khai Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX), Đại hội khóa X tiếp tục khẳng định "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế", đồng thời "mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác", nhấn mạnh chủ động và tích cực hội nhập kinh tế, còn đối với các lĩnh vực khác chỉ mới chủ trương mở rộng hợp tác. Từ đây, Việt Nam đã hội nhập kinh tế ở cấp độ toàn cầu, hợp tác văn hóa - xã hội đã được tăng cường, hợp tác an ninh quốc phòng đã được xác lập và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ.

Đến Đại hội XI (2011) khi quan hệ của nước ta với cộng đồng thế giới đã ngày càng mở rộng, Đảng ta xác định “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Chủ trương hội nhập quốc tế đã được thể chế hóa bằng Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị ngày 10/4/2013. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực tạo cho chúng ta khả năng tận dụng được sự tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa hội nhập trong từng lĩnh vực. Do đó, chúng ta sẽ có cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tri thức tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước khẳng định vai trò và vị trí trong nền kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Điều này cho thấy tinh thần vừa sáng tạo, vừa cẩn trọng, đi từng bước vững chắc trong đề xuất chủ trương cũng như trong hành động thực tiễn thắm đượm bản sắc Việt Nam, đồng thời thể hiện cao quyết tâm hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.

Chúng ta đang triển khai đồng thời đàm phán 6 khuôn khổ thương mại tự do lớn là đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), đối tác kinh tế toàn diện khu vực Đông Á (RCEP), các hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc, EU, khu vực mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) và Liên minh Thuế quan Nga – Belarus – Kazakhstan.

Chúng ta đã xác lập quan hệ ngoại giao với 180 trong 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, quan hệ kinh tế thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam trở thành thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế, có 98 cơ  quan đại diện các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp năm châu lục trên thế giới. Thế và lực của đất nước ngày càng vững mạnh. Vai trò và vị thế của đất nước trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, Việt Nam cũng đang triển khai một cách khẩn trương và có hiệu quả chủ trương làm sâu sắc quan hệ với các đối tác quan trọng. Hiện nay, chúng ta đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước (Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Italia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Pháp). Việt Nam và Hoa Kỳ đã xác lập quan hệ đối tác toàn diện, tạo nền tảng cho những bước phát triển mới trong quan hệ song phương phục vụ tốt hơn lợi ích hai nước, góp phần cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.

Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Chúng ta tiếp tục tham gia một cách chủ động, tích cực, có trách nhiệm vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, cùng các nước thành viên xác định những định hướng lớn cho Hiệp hội giai đoạn sau khi thành lập Cộng đồng vào năm 2015, thúc đẩy hợp tác nội khối, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình.

Việt Nam và các nước ASEAN cũng đang nỗ lực cùng Trung Quốc hướng tới một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, kiểm soát các tranh chấp, góp phần xây dựng lòng tin và củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược ASEAN – Trung Quốc.

Chúng ta đấu tranh kiên quyết với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, tạo diễn biến hòa bình, chuyển hóa chế độ, gây bất ổn định đất nước. Bên cạnh đó, chúng ta chủ động tăng cường trao đổi, đối thoại trên tinh thần xây dựng với các nước, các tổ chức phi chính phủ về các thành tựu phát triển, bảo vệ quyền con người và quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam nhằm tăng cường hiểu biết và hợp tác với các nước, các đối tác quan trọng.

Việt Nam không ngừng tăng cường tham gia toàn diện, sâu rộng trong khuôn khổ các diễn đàn đa phương. Lần thứ hai, Việt Nam đã chính thức ứng cử làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2020-2021), đăng cai tổ chức Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới IPU lần thứ 132 (năm 2015) và cũng lần thứ hai đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC (năm 2017). Mới đây nước ta đã được bầu vào Hội đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO và lần đầu tiên được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu rất cao, kết quả đó thể hiện uy tín quốc tế của nước ta và lòng tin của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam.

Tại đối thoại Shangri-La ở Singapore vào tháng 5/2013, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng lần đầu tiên đã chính thức công bố Việt Nam quyết định tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc từ năm 2014. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh khẳng định chúng ta không đưa cán bộ, chiến sĩ vào những nơi có chiến tranh mà thực hiện những công việc mang tính chất củng cố hòa bình và tái thiết ở những đất nước đang còn nghèo. Với quyết định này, chúng ta không chỉ dừng ở mức đóng góp bằng tài chính hay bằng tiếng nói mà cả bằng nhân lực vào công việc chung của Liên Hợp Quốc.

Nếu việc tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) mở đầu sự hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế quốc tế thì với những hoạt động ngoại giao đa phương trên, Việt Nam đã bắt đầu hội nhập đầy đủ vào đời sống chính trị quốc tế.

Chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đang đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của chúng ta lên một tầm cao mới trên tất cả các lĩnh vực, đặt ra yêu cầu cao hơn về tranh thủ thời cơ chiến lược và sức mạnh thời đại cho phát triển đất nước cũng như giữ vững độc lập, tự chủ và môi trường ổn định khi hội nhập sâu và toàn diện với khu vực và thế giới.

Quá trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, để dân tộc ta không đánh mất mình trong thế giới luôn phát triển và biến động khó lường, để hội nhập mà không hòa tan, hơn bao giờ hết, Đảng ta đã chủ trương tích cực triển khai “Chiến lược phát triển văn hóa đến 2020”. Việc tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, học tập những kinh nghiệm tốt xây dựng và phát triển văn hóa của các nước trên thế giới được đẩy mạnh. Mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài đi đôi với việc giữ gìn, bồi đắp bản sắc văn hóa của dân tộc; từ đó phát triển văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới, góp phần vào sự phát triển văn hóa nhân loại. Thông qua các hoạt động văn hoá đối ngoại, bạn bè thế giới hiểu biết hơn về đất nước, con người và văn hoá Việt Nam, từng bước tạo dựng lòng tin đối với Việt Nam, đưa quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững.

Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đang đặt ra cho chúng ta rất nhiều thách thức. Tác động tiêu cực từ các diễn biến bên ngoài sẽ gia tăng. Những bất ổn không chỉ về kinh tế mà cả về an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng tác động tới nước ta; các loại tội phạm xuyên biên giới như: Buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm nhập tiền giả, tài liệu phản động, văn hóa phẩm không lành mạnh và các thách thức an ninh phi truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của an ninh quốc gia từ an ninh kinh tế đến an ninh chính trị xã hội. Đồng thời, yêu cầu bổ sung và hoàn thiện thể chế; cải cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao,...sẽ ngày càng lớn.

Theo đó, để giảm thiểu các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các cơ hội từ hội nhập quốc tế, nội hàm và lộ trình của hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất nước và bối cảnh tình hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ quốc XHCN và vị thế quốc gia.

Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước trên đường hội nhập quốc tế, đảm bảo lợi ích quốc gia tới mức cao nhất có thể và ra sức bảo vệ, phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa bền vững./.

Ngày Đăng :
Thạc sĩ Trần Văn Hòa
                                                                                        Khoa Xây dựng Đảng
 

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam kéo dài 21 năm (1954 - 1975), có quy mô rộng lớn, tính chất và cường độ vô cùng quyết liệt. Việt Nam phải đương đầu với một đối phương có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn gấp nhiều lần, có bộ máy chiến tranh khổng lồ. Trong cuộc đối đầu lịch sử, ngọn cờ chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đã tạo ra sức mạnh vượt trội cho cuộc kháng chiến thần kỳ. Sức mạnh ấy sẽ được nhân lên gấp nhiều lần, tính chính nghĩa càng tỏa sáng, khi được gắn với thế hợp pháp, gắn với các giá trị tiến bộ của nhân loại được thế giới đồng tình, cổ vũ, ủng hộ, giúp đỡ. Trên tinh thần đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam ra sức vận động, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế và trong từng giây phút chiến tranh đấu trí, đấu lực đầy cam go ấy, Việt Nam không hề đơn độc, mà luôn có bạn bè quốc tế giúp đỡ nhiệt tình, hiệu quả, đặc biệt là sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Trong những năm kháng chiến ác liệt của quân và dân ta với sự ủng hộ về tinh thần, vật chất của khối các nước xã hội chủ nghĩa đã làm tăng lên đáng kể sức mạnh mọi mặt của Việt Nam hình thành những điều kiện cần và đủ để nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc.

* Từ chủ trương, chính sách đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Độc lập là vô giá, quyền dân tộc là thiêng liêng! Lúc này, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, tự do; nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân là bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ chế độ. Trên tinh thần đó “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”, Đảng ta chủ trương: “Củng cố chính quyền, dùng chính trị, ngoại giao, vũ khí cần thiết, đến dùng quân sự để giữ vững nền độc lập”[1]. Ngày 3/10/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ra thông cáo về chính sách ngoại giao, chỉ rõ mục tiêu bất di, bất dịch các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam là “đưa nước nhà đến sự độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn”[2]. Trong điều kiện chính quyền non trẻ vừa mới ra đời chưa được bất kỳ một nước nào trên thế giới công nhận, đất nước bị bao vây bốn phía, nên việc mở rộng quan hệ, tranh thủ thêm bạn bè trở thành mục tiêu chiến lược quan trọng hàng đầu được Đảng ta xác định đối với các mặt đấu tranh chính trị, ngoại giao. Kiên trì ngoại giao với các nước theo nguyên tắc: Hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng và tương trợ. Đảng chủ trương mở các mũi đột phá ngoại giao, kết nối Việt Nam với các bạn bè dân chủ trên thế giới. Trên quan điểm ngoại giao, đa phương Đảng ta xác định:

1.“Việt Nam là một bộ phận trong đại gia đình Châu Á. Vận mệnh Việt Nam rất mật thiết quan hệ với vận mệnh các dân tộc Á Châu” [3]  

2. “Việt Nam là một bộ phận trong nền hòa bình chung của thế giới”[4];

Đặt đất nước vào mối liên hệ với khu vực và thế giới, Chính phủ Việt Nam tuyên bố:

Thứ nhất, “đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực” [5]

Thứ hai, “đối với những nước Á Châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”[6]

Thứ ba, “thân thiện với tất cả các nước láng giềng Trung Hoa, Ấn Độ, Xiêm La, Cao Mên, Ai Lao..., mà không thù gì với nước nào”[7]. 
Như vậy, quan hệ của Việt Nam với bất kỳ nước nào trên thế giới, không phân biệt sang hèn, được xây dựng trên một trục cơ bản: Bình đẳng; mọi dân tộc sinh ra trên thế giới, dù sớm muộn, lớn nhỏ khác nhau, song đều có chung quyền cơ bản, đều có quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng mưu cầu hạnh phúc.

Thực hiện chủ trương đối ngoại phá thế bao vây của các thế lực thù địch, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành các hoạt động ngoại giao trên hai hướng chính: Thứ nhất, đề nghị các nước lớn (Liên Xô, Hoa Kỳ, Trung Quốc (Quốc dân Đảng)...) công nhận nền độc lập và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam; Thứ hai, phá thế bao vây, cô lập, thiết lập trên phạm vi rộng nhất có thể các mối liên hệ với các nước. Một trong những mũi nhọn đột phá, nhằm nối Việt nam với thế giới bên ngoài, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của khối các nước xã hội chủ nghĩa, đăc biệt là Liên Xô.

Ngày 22/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mật điện cho I.V.Stalin, thông báo về sự ra đời của Chính phủ Cách mạng ở Việt Nam, đề nghị Liên Xô giúp đỡ vượt qua những thách thức, khó khăn do thiên tai gây nên,...sau đó Người tiếp tục gửi bức công hàm với nội dung cụ thể hơn, chi tiết hơn, trình bày tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám thành công. Trong bức công hàm Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do đến cùng của nhân dân Việt Nam. Bức công hàm được phía Liên Xô đón nhận và hồi âm.

Nêu cao nguyên tắc: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”[8]. Thực hiện chính sách ngoại giao láng giềng thân thiện, bên cạnh các nổ lực hướng đến Liên Xô, Việt Nam đặt trọng tâm tranh thủ sự giúp đỡ của Trung Quốc - quốc gia láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, và có mối quan hệ chính trị - kinh tế, văn hóa gần gũi.

Trên cơ sở đường lối vận động quốc tế, trong từng bước phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng Lao động Việt Nam, Nhà nước Việt Nam tiếp tục nghiên cứu diễn biến tình hình, có biện pháp, giải pháp phù hợp, hạn chế những yếu tố tiêu cực, tranh thủ mọi yếu tố có lợi, tích cực thuyết phục, vận động các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng tình, giúp đỡ nhân dân Việt Nam; đặt trọng tâm vào hai nước xã hội chủ nghĩa lớn là Liên Xô và Trung Quốc.

* Đến sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc

Cuối năm 1948 đánh dấu một bước tiến mới trong sự ủng hộ của Liên Xô đối với Việt Nam: Liên Xô đề nghị Hội đồng kinh tế  Châu Á - Viễn Đông kết nạp Việt Nam làm hội viên nhưng đề nghị của Liên Xô bị một số nước bác bỏ. Từ năm 1948 đến khi hai nước đặt quan hệ ngoại giao chính thức (1950), nhờ có sự hỗ trợ của Liên Xô, các phái đoàn của Việt Nam mở rộng khả năng ra nước ngoài tham dự các hội nghị quốc tế và nhận được sự ủng hộ của một số nước dân chủ nhân dân khác. Sự ủng hộ của Liên Xô là nguồn động viên to lớn đối với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh bắt buộc để giải phóng dân tộc ra khỏi ách đô hộ của giặc ngoại xâm.

Với mục tiêu trao đổi quan điểm, phối hợp hoạt động trên trường quốc tế, Việt Nam và Liên Xô thường xuyên trao đổi các đoàn thăm hỏi cấp cao. Từ năm 1954 đến 1959 có bốn chuyến thăm cấp cao của Việt Nam đến Liên Xô, trong đó, có ba chuyến thăm của Chủ tịch nước (Hồ Chí Minh), một chuyến thăm do Tổng Bí thư Trường Chinh dẫn đầu. Về phía Liên Xô, tháng 7/1957 ở Liên Xô, Hội Hữu nghị Xô - Việt được thành lập; từ sau khi đặt Đại xứ quán ở Việt Nam (11-1954), các chuyến thăm hữu nghị đến Việt Nam, ký kết các hiệp định hợp tác của các đoàn đại biểu Đảng, chính phủ Liên Xô khá thường xuyên. Đây là cơ hội để lãnh đạo hai nước trao đổi quan điểm về những vấn đề hai bên cùng quan tâm, tháo gỡ những khúc mắc, hiểu lầm, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, phối hợp hành động trên trường quốc tế.

Với Liên Xô, từ năm 1955, Việt Nam, Liên Xô đã ký kết hàng loạt hiệp định, hình thành một hành lang pháp lý thông thoáng, thuận tiện cho hợp tác giữa hai nước: Hiệp định về đào tạo lưu học sinh Việt Nam trong các cơ sở giáo dục của Liên Xô (27/8/1955); Hiệp định về hợp tác văn hóa (15/2/1957); Hiệp tác về trao đổi hàng hóa, thương mại (30/3/1957); Hiệp định về thương mại và vận tải biển (12/3/1958); Hiệp định về hợp tác khoa học - kỹ thuật (7/3/1959); Hiệp định cung cấp và viện trợ kinh tế, kỹ thuật giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất năm 1961-1965,... để thuận tiện cho việc thanh khoản.

Liên Xô tích cực giúp đỡ nhân dân Việt Nam thực hiện các kế hoạch kinh tế. Đặc điểm nổi bật trong sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt nam là viện trợ không hoàn lại. Theo hiệp định ngày 18/7/1955 Liên Xô viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 400 triệu rúp, giúp khôi phục và xây dựng 25 xí nghiệp [9]. Đồng ý hỗ trợ tiến hành các công việc khảo sát địa chất ở Việt Nam và phòng chống các bệnh truyền nhiễm, giúp xây dựng và khôi phục các xí nghiệp công trình công nghiệp, cơ quan thuộc các ngành cơ khí, than, điện lực, công nghiệp nhẹ. Những năm 1955-1956, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam số lượng hàng hóa trị giá 45 triệu rúp. Riêng năm 1956, khi Việt Nam thiếu lương thực trầm trọng Liên Xô lập tức chở sang Việt Nam 170 nghìn tấn gạo mua ở Mianma, 8,5 nghìn tấn đường và một số lượng lớn hàng tiêu dùng...

Như vậy, từ năm 1954 đến năm 1964 Liên Xô giúp Việt Nam  thiết lập cấu trúc kinh tế của đất nước, đặt nền móng cho một số ngành công nghiệp hiện đại (nhiệt điện, thủy điện, cơ khí, hóa chất, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm…), ủng hộ, giúp đỡ nhân dân Việt Nam khôi phục và phát triển kinh tế, đào tạo cán bộ cho miền Bắc. Về sự ủng hộ, giúp đỡ của Liện Xô đối với Việt Nam như Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu: “Sự giúp đỡ to lớn và quý báu của Liên Xô đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới của nhân dân miền Bắc Việt Nam...Toàn bộ sự giúp đỡ của Liên Xô có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với việc hoàn thành thắng lợi kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa”[10]. Ngoài ra Liên Xô còn viện trợ cho Việt Nam một lượng lớn vũ khí, đạn vượt để giúp nhân dân Việt Nam đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai xâm lược.

Với Trung Quốc, do bề dày quan hệ và vị trí địa lý liền kề, Trung Quốc được xác định là hậu phương lớn của Việt Nam trong cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ, nên sự trao đổi, bàn bạc giữa lãnh đạo hai nước thường xuyên hơn, chặt chẽ hơn. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Trung quốc đã kề vai, sát cánh, ủng hộ Việt Nam suốt chiều dài cuộc chiến. Sau năm 1954, sự hiện diện của Mỹ ở miền Nam Việt Nam khiến Trung Quốc lo lắng về an ninh biên giới phía Nam; do vậy, Trung Quốc lập tức có những động thái cụ thể ủng hộ Việt Nam. Cũng giống như đối với Liên Xô, trao đổi các đoàn cấp cao Việt - Trung là một trong những hoạt động quan trọng. Ngoài các đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam liên tục tới thăm Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hàng chục cuộc hội đàm trao đổi không chính thức với các nhà lãnh đạo Trung Quốc.

Trung Quốc là một trong những quốc gia lên tiếng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam. Các nhà lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc tổ chức nhiều hoạt động phong phú thể hiện tình đoàn kết hữu nghị với nhân dân Việt Nam. Ngày 19/7/1960, hơn một vạn nhân dân Thủ đô Bắc Kinh tổ chức míttinh trọng thể lên án tội ác của Mỹ - Diệm, ủng hộ Việt Nam. Tháng 12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời và khi các nước xã hội chủ nghĩa khác còn chần chừ thì Trung Quốc là một trong những nước đầu tiên, sớm nhất công nhận và đồng ý để Mặt trận mở cơ quan đại diện tại nước mình. Ngay sau khi xảy ra sự kiện vịnh Bắc Bộ (8/1964) thì thái dộ Trung Quốc khá quyết liệt “nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là nước láng giềng khăng khít như môi với răng của Trung Quốc. Nhân dân Việt Nam là những người anh em thân như ruột thịt của nhân dân Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc quyết không khoanh tay ngồi nhìn mà không cứu”[11]. Thảo luận với Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đang ở thăm Trung Quốc (8/1964, Mao Trạch Đông tuyên bố: Trung Quốc không có ý định khiêu khích Mỹ, nhưng đã lên kế hoạch triển khai 30.000 - 50.000 quân ở phía nam Trung Quốc, xây dựng hai sân bay ở Nam Ninh cho máy bay cất cánh sang Việt Nam nếu Bắc Việt Nam bị đe dọa. Liên tiếp trong 5 ngày từ ngày 7 đến ngày 11/8/1964, hơn 20 triệu nhân dân Trung Quốc ở các tỉnh, thành khác nhau xuống đường tuần hành cực lực lên án Mỹ mở rộng chiến tranh chống miền Bắc Việt Nam. Đến ngày 25/8/1964, Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh nhận được gần 30.000 bức thư của các tầng lớp nhân Thượng Hải ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.

Sự ủng hộ tích cực về chính trị của Trung Quốc đối với Việt Nam được thể hiện qua những tuyên bố, những bức điện gửi các nhà lãnh đạo Việt Nam, phát biểu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc; qua những bức điện của các tổ chức đoàn thể Trung Quốc gửi cho các đoàn thể tương ứng Việt Nam...Ngoài ra Trung Quốc còn giúp đỡ Việt Nam cơ sở vật chất, các trang thiết bị, các loại vũ khí, đạn vượt để nhân dân Việt Nam chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Ngoài Liên Xô và Trung Quốc các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng tích cực ủng hộ nhân dân Việt Nam. Trong thời gian này, nhiều đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ các nước Ba Lan, Hunggari, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa Dân chủ Đức, Cu ba,...đã đến thăm Việt Nam. Các nước đều khẳng định lập trường ủng hộ nhân dân nhân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do. Những cuộc viếng thăm đó là sự cổ vũ to lớn đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và góp phần thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa. Trên các mặt hợp tác, giúp đỡ về văn hóa, giáo dục, y tế, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungari, Hunggari, Cộng hòa Dân chủ Đức,...luôn tạo những điều kiện thuận lợi để mở rộng, phát triển các chương trình hợp tác về văn hóa, giúp đào tạo về cán bộ chuyên môn và cử chuyên gia sang giúp Việt Nam. Những nghĩa cử chí nghĩa, chí tình của các nước xã hội chủ nghĩa không chỉ là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với nhân dân Việt Nam, mà còn trực tiếp tăng cường sức mạnh cho Việt Nam trên vũ đài chính trị thế giới.

Sự giúp đỡ nhiệt thành của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam trong tình thế Việt Nam đơn độc trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, là vô cùng quan trọng, hết sức to lớn và quý báu. Nhân dân Việt Nam sử dụng sự giúp đỡ ấy một cách hiệu quả, từng ngày, từng giờ tạo ra sức mạnh cần và đủ để chiến đấu chống ngoại xâm giành thắng lợi, đưa Việt Nam thống nhất đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội./.

 

Số liệu lấy từ: Nguyễn Thị Mai Hoa: “Các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)” Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2013, tr.134, 135.
Tài liệu tham  khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8.
3. Bộ Quốc phòng: yêu cầu các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ kinh tế trong năm 1969, tài liệu lưu tại trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phong năm 1969.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập,, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, t.10.
5. Thông cáo về chính sách ngoại giao của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, báo Cứu quốc ngày 3-10-1945, t.1.
6. Vụ Liên Xô, Bộ ngoại giao vế quan hệ Việt – Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, tr.4.
7. Nguyễn Thị Mai Hoa: Các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội-2013.


 


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.6

[2].Thông cáo về chính sách ngoại giao của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, báo Cứu quốc ngày 3-10-1945, t.1.

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.27

[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.30

[5],[6],[7]. Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4. tr.520; t.5, tr.163, 199

[8]. Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.256

[9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập , t.10, tr.143

[10] . Vụ Liên Xô, Bộ ngoại giao vế quan hệ Việt – Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, tr.4

[11] . Tuyên bố ngày 6-8-1964

Ngày Đăng :
Hồ Thị Thùy Dung
Khoa Lý Luận Mác-Lênin, tư Tưởng Hồ Chí Minh
 

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kỳ của dân tộc ta thắng lợi là kết quả tất yếu dựa trên nhiều nguyên nhân. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm bất khuất của dân tộc ta và sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng, người Việt Nam là những con người anh hùng, kiên cường, bất khuất, rất gan dạ, dũng cảm và giàu lòng yêu nước. Đứng trước một kẻ thù khổng lồ như đế quốc Mỹ, người Việt Nam không hề run sợ mà rất ngoan cường, Đảng và nhân dân ta đã làm nên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quyết tâm “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” giành toàn vẹn lãnh thổ đem lại độc lập tư do cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Sau hiệp định Pari được ký kết, Mỹ lộ rõ âm mưu nhằm hất cẳng Pháp, độc chiếm miền Nam Việt Nam. Với bản chất xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới, Mỹ đã dùng hết tài lực, vật lực và nhân lực của mình hòng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự đắc địa làm bàn đạp cho Mỹ tấn công khu vực Đông Dương. Chúng thống trị nhân dân ta bằng chính sách tàn độc trên mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng. Đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị mà thông qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thông qua chính sách dùng người Việt trị người Việt, dùng viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam đến tận xương tủy.  Không những thế chúng còn ra sức càn quét, giết hại chiến sĩ và đồng bào ta qua những đạo luật đẫm máu, luật 10/59 với phương châm “Thà giết lầm hơn bỏ sót”, đẩy mạnh phong trào “Tố cộng diệt cộng”, “Diệt cỏ tận gốc” gây tổn thất nặng nề cho cách mạng và gây oán khổ cho nhân dân ta. Đứng trước tình hình đó, Đảng ta xác định đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất của ta. Nhưng, đối với nhân dân Việt Nam cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến tranh chính nghĩa được nhân dân cả nước và bạn bè thế giới ủng hộ. Vì chúng ta buộc phải đánh đuổi quân xâm lược để giành lại độc lập tự do cho dân tộc mình. Còn đế quốc Mỹ, chúng từ bên kia quả địa cầu đem đội quân hùng hổ ngang nhiên sang xâm lược đất nước ta, gieo tang thương, chết chóc cho dân tộc ta. Cuộc chiến tranh xâm lược ấy, là cuộc chiến tranh phi nghĩa không được sự ủng hộ. Xác định rõ điều đó, Đảng và nhân dân ta khẳng định đường lối kháng chiến của ta chính là “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh” với thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện phong trào toàn dân đánh giặc, dùng bạo lực cách mạng để chống bạo lực phản cách mạng.  Chúng ta tiến hành đánh địch bằng hai chân, ba mũi giáp công trên ba vùng chiến lược. Thực hiện kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận để tạo thế và lực mạnh nhất quyết đánh bật bọn xâm lược ra khỏi nước ta. Trong đó, mũi giáp công thứ ba: Binh vận được Đảng và nhân dân ta vận dụng như một nghệ thuật quân sự điêu luyện.

Phương châm đánh giặc bằng hai chân, ba mũi giáp công trên ba vùng chiến lược. Đó là phương pháp cách mạng dựa trên việc đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trên cả ba vùng thành thị, nông thôn và miền núi, kết hợp chặt chẽ công kích địch bằng ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự và binh vận. Trong đó, phương pháp đánh địch bằng ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận là một trong những sáng tạo đặc biệt của Đảng và nhân dân ta. Đảng ta xác định rõ công tác binh vận là công tác vận động quần chúng cách mạng, là nhiệm vụ chiến lược, một trong ba mũi tấn công chiến lược của cách mạng miền Nam. Công tác binh vận là trách nhiệm của toàn Đảng, quân, dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong thế trận chiến tranh nhân dân, công tác binh vận đã được Đảng ta quan tâm chỉ đạo kịp thời. Bằng việc khơi dậy lòng yêu thương của con người với con người, với truyền thống con cháu vua Hùng, con rồng cháu tiên, ta đem đạo lý dân tộc, nghĩa tình đồng bào tác động vào trái tim, khối óc của binh sĩ đối phương, làm thức tỉnh lương tri của những con người lầm đường lạc lối. Hướng họ đi vào con đường của chân lý, nhận thức rõ về Đảng, tin Đảng và theo Đảng. Giúp họ bỏ súng quy hàng trở về với gia đình với lòng yêu thương, sự cưu mang đùm bọc của làng xóm láng giềng, để tất cả cùng vùng lên chống lại kẻ thù đang giày xéo quê hương mình. Đó là công tác binh vận, là một sáng tạo độc đáo của Đảng ta trong phát triển nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng, làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Công tác binh vận thật sự là một bộ phận của sức mạnh tổng hợp, một mũi tiến công chiến lược, không chỉ phục vụ và kết hợp với đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, mà còn độc lập chiến đấu diệt ác ôn, phá hoại phương tiện chiến tranh của địch, khởi nghĩa làm binh biến.

Công tác binh vận thực chất là công tác vận động quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đối tượng của binh vận là quần chúng, đặc biệt bao gồm những người tham gia lực lượng ngụy quân, ngụy quyền của địch và gia đình họ.  Đại bộ phận họ và gia đình họ là người lao động, bị đế quốc và tay sai lôi kéo, dụ dỗ nhưng họ có ý thức dân tộc, vận động giác ngộ họ là yêu cầu khách quan của cuộc cách mạng nhằm tập hợp đoàn kết mọi người Việt Nam yêu nước, tiến bộ vào mặt trận đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược, bọn tay sai bán nước. Ngoài những đối tượng trên, Đảng ta còn chú ý vận động thực hiện tốt chính sách đối với binh lính địch thuộc đồng bào dân tộc thiểu số, binh lính theo tôn giáo và cả binh sĩ Mỹ. Đảng ta xem họ là một “lực lượng quần chúng đặc biệt”. Đối với binh sĩ Mỹ, Đảng ta xác định: Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ là cuộc chiến tranh phi nghĩa, nó đi ngược lại với hòa bình và tiến bộ xã hội, nên binh sĩ Mỹ sang Việt Nam với một tư thế bị ép buộc, họ bị lôi kéo, dụ dỗ nên mang tâm lý thoái lui không có tinh thần chiến đấu. Chính vì vậy, cán bộ binh vận của ta dùng mọi cách, kể cả diễn đạt bằng ngôn ngữ cơ thể, để giúp cho binh sĩ Mỹ hiểu được cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ là cuộc chiến phi nghĩa, nhân dân Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, chỉ muốn độc lập tự do cho nhân dân của mình. Nhờ vậy mà ta tuyên truyền, vận động được hàng loạt binh sĩ Mỹ quy hàng, gây xáo trộn hàng ngũ của địch, tổn thất nặng nề về mặt tâm lý, tinh thần của binh sĩ Mỹ, làm sụt giảm nghiêm trọng lực lượng của bọn ngụy quân ngụy quyền.

Khẳng định công tác binh vận là công tác chiến lược, là một trong ba mũi tấn công chiến lược do Đảng lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt. Đảng ta luôn quan tâm xây dựng tổ chức bộ máy Ban binh vận vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng. Nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt đã được phân công phụ trách công tác này. Đảng luôn quan tâm giáo dục, quán triệt cho cán bộ, Đảng viên và chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách binh vận. Đảng cử cán bộ binh vận đi học tập nâng cao trình độ, sau đó về cài cắm những cán bộ này vào sâu trong hàng ngũ của địch, thực hiện phân hóa hàng ngũ kẻ thù, khoét sâu mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, thực hiện nắm bắt thông tin, kịp thời cung cấp thông tin có lợi cho cách mạng. Bên cạnh đó, ta thực hiện bám sát quần chúng nhân dân, đưa  cán bộ ta vào trong quần chúng, kịp thời nắm bắt tâm tư tình cảm của nhân dân để kịp trời tranh thủ sự ủng hộ của lưc lượng toàn dân. Tùy theo tình hình cụ thể diễn biến như thế nào mà Đảng ta vận dụng những hình thức binh vận phong phú đa dạng như: Dùng nội tuyến diệt ác ôn, nghi binh hù dọa địch, dùng lực lượng gia đình kêu gọi binh lính đầu hàng. Đặc biệt là dùng những người mẹ, người vợ hay người yêu của binh lính ngụy để kêu gọi binh lính trở về. Tại các đồn bót địch ta đều có bố trí tổ vị trí, tổ binh vận vũ trang, lực lượng binh vận thường trực, bao vây tuyên truyền phát động gia đình binh sĩ và binh sĩ. Trên cơ sở có phong trào quần chúng vận động binh sĩ tốt mà ta bắt mối quan hệ xây dựng nhiều cơ sở trong lòng địch. Cán bộ binh vận của ta khéo léo dùng tình cảm đánh trúng vào tâm tư nguyện vọng của binh lính ngụy, thức tỉnh lòng yêu quê hương đất nước của họ, vận động, giác ngộ giúp họ hiểu, tin và đi theo Đảng, bỏ súng quy hàng trở về với cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho bộ đội ta đánh địch lấy đồn địch. Từ sự giác ngộ của quần chúng và gia đình binh sĩ mà có phong trào quần chúng đấu tranh vận động tuyên truyền binh sĩ, đã tập hợp đông đảo quần chúng và gia đình binh sĩ thành mũi xung kích đánh địch, không có vũ khí mà thành công lớn, góp phần cho mũi vũ trang giảm đổ xương máu. Nhờ thực hiện tốt công tác binh vận và áp dụng những hình thức binh vận phù hợp mà ở nhiều nơi quân và dân ta tay không lấy được đồn địch, không hề có bất kỳ tổn thất hay thương vong. Đó là những thắng lợi bước đầu của công tác binh vận.

Chúng ta thấy rằng khi Đảng ta đã nhận thức đúng vai trò, vị trí công tác binh vận trong đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, kết hợp tốt vận động cách mạng trong binh sĩ địch với làm tan rã quân đội địch, thì công tác binh vận sẽ tập trung được sức mạnh to lớn của quần chúng, tạo thế và lực vững chắc cho cách mạng vượt qua mọi khó khăn thử thách giành thắng lợi. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang thành sức mạnh tổng hợp của ba mũi giáp công tạo thế và lực mới tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Với phương châm trường kỳ mai phục, súc tích lực lượng, chuẩn bị thời cơ, phát động toàn Đảng, toàn dân đều làm công tác binh vận, biến lực lượng của địch thành lực lượng cách mạng. Đồng thời, kết hợp phương châm hai chân ba mũi, tấn công địch trên cả ba vùng chiến lược, xây dựng phát huy tốt khối công nông binh liên hiệp. Việc kết hợp giữa đấu tranh binh vận với đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, đây vừa là nguyên tắc, vừa là quy luật của binh vận.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Ở từng giai đoạn cách mạng, từng chiến dịch, từng trận đánh, quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng thể hiện rất rõ về ba mũi giáp công. Lực lượng vũ trang của ta đã biết vận dụng sáng tạo và đúng mức công tác binh vận để phục vụ cho việc tiêu diệt sinh lực địch. Trong công tác vũ trang tuyên truyền phát động quần chúng, công tác binh vận đã tạo thế cho hai phong trào chính trị và vũ trang từng bước vươn lên và đến lượt mũi chính trị, vũ trang sẽ tác động thúc đẩy mũi binh vận phát triển. Ba mũi giáp công thực chất là phương thức tấn công địch bằng bạo lực chính trị và vũ trang của quần chúng, là phong trào toàn dân đánh giặc trong tình hình mới, mang tính tự giác, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng. Chính điều đó đã góp phần tạo thế và lực cho Đảng và nhân dân ta thực hiện thành công chiến địch Hồ Chí Minh lịch sử, thật sự đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào, giúp Việt Nam giành toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân Việt Nam được độc lập tư do, ấm no, hạnh phúc. Hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nhân dân Việt Nam đang hưởng cuộc sống hòa bình hạnh phúc. Nhưng hơn lúc nào hết Đảng và nhân dân ta vẫn luôn cảnh giác với chiến lược diễn biến hòa bình, đề phòng với âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Công tác binh vận của Đảng ta vẫn được đặt lên hàng đầu, quân đội ta, nhân dân ta luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, độc lập tự do của nước nhà./.

Ngày Đăng :
Nguyễn Thị Ninh
Khoa Xây dựng Đảng
 

Chiến thắng 30/4/1975 là mốc son lịch sử sáng ngời của dân tộc Việt Nam, là khúc khải hoàn ca mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân mong đợi hơn 30 năm qua (1945-1975), song chiến thắng đó luôn luôn sống mãi trong ký ức của mỗi người dân Việt Nam. Bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sự ủng hộ to lớn của bạn bè quốc tế trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây của Đảng ta vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập quốc tế hiện nay, do vậy chúng ta phải vận dụng một cách sáng tạo trong tình hình hiện nay.

Hòa cùng khí thế hào hùng, cả nước long trọng tổ chức nhiều cuộc thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 39 năm ngày giải phóng miền Nam (30/4/1975-30/4/2014), đây cũng là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống quý báu của dân tộc.

Trước đây, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này đang ở thời kỳ phát triển mạnh mẽ, có tác động to lớn đến quá trình phát triển của thế giới. Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao mạnh mẽ ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và hoà bình ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển rộng khắp và liên tục.

 Cách mạng Việt Nam đã hoà được vào trào lưu chung của cách mạng thế giới, khai thác những nhân tố thuận lợi cho cách mạng. Song, chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn. Kẻ thù của ta là một đế quốc có sức mạnh kinh tế, kỹ thuật, quân sự hàng đầu thế giới, âm mưu của chúng là chiếm miền Nam, tiến tới xâm chiếm cả nước ta; thực hiện chia rẽ Bắc - Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm hạn chế dòng thác cách mạng XHCN đang phát triển và lan rộng trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, cuộc đấu tranh giữa nhân nhân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc với đế quốc Mỹ xâm lược đã trở thành “cuộc đụng đầu lịch sử” vô cùng quyết liệt giữa hai lực lượng: Cách mạng và phản cách mạng. Đảng ta vận dụng đúng quy luật kết hợp đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế tạo nên sức mạnh tổng thể để đánh thắng kẻ địch là bài học lớn, vô cùng quý báu của Đảng và nhân dân ta.

Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã nhận định, phân tích toàn diện và sâu sắc tình hình thế giới và khu vực, xu thế phát triển của thời đại và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ đó, xác định đúng đắn, sáng tạo đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vấn đề cốt lõi là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam trên cơ sở phát huy cao độ truyền thống đoàn kết của dân tộc. Quân dân đoàn kết một lòng, toàn dân một ý chí với tinh thần “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, tất cả vì mục tiêu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Cả miền Bắc hướng về miền Nam “mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”. Dưới khói lửa đạn bom của máy bay, tàu chiến Mỹ, nhân dân vẫn không nao núng quyết tâm vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa dồn sức chi viện mạnh mẽ, liên tục, ngày càng tăng cho tiền tuyến miền Nam.

Các phong trào thi đua như phong trào thanh niên “ba sẵn sàng’, phụ nữ “ba đảm đang”, nông dân “tay cày tay súng”, công nhân “tay búa tay súng”, học sinh “làm nghìn việc tốt chống Mỹ cứu nước’,…đã  thu hút mọi tầng lớp, mọi thành phần, mọi lứa tuổi. Trong khi đó, tại miền Nam, quân và dân đẩy mạnh tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, bằng ba mũi giáp công, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị. Chính vì vậy, dù ở đâu, Mỹ, ngụy cũng không tránh khỏi sự tiến công mạnh mẽ của quân và dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân”. Hơn bao giờ hết, đoàn kết là chất keo dính mỗi người Việt Nam trong khối đại đoàn kết dân tộc, làm nên sức mạnh thiêng liêng của toàn dân tộc.

Nếu đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng dân tộc thì đoàn kết quốc tế góp phần làm tăng thêm sức mạnh cho dân tộc. Do vậy, song song với chủ trương tập hợp sức mạnh dân tộc thì Đảng ta chủ trương tăng cường đoàn kết quốc tế, coi đó là bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ cứu nước.

Phát huy truyền thống láng giềng gắn bó, Đảng và nhân dân ta đã hiệp đồng liên minh với quân đội Lào, Campuchia tạo thế chiến lược tiến công chung cho cả ba nước, đánh bại từng kế hoạch, từng biện pháp chiến lược lớn của địch trên toàn Đông Dương “Tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương trở thành một khối thống nhất có một chiến lược chung kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai[1].

Lúc này, Liên Xô và Trung Quốc tiếp tục đối kháng gay gắt. Mỹ đang đẩy mạnh hòa hoãn với hai nước. Đảng kiên trì tranh thủ cả hai nước, nắm chắc và vận dụng mẫu số chung của mỗi nước trong vấn đề Việt Nam là chống đế quốc Mỹ xâm lược, làm nghĩa vụ quốc tế đối với một nước xã hội chủ nghĩa, góp phần vào an ninh chung của cả cộng đồng và bảo vệ hòa bình. Chúng ta giữ vững độc lập tự chủ, lấy lợi ích đại cuộc làm trọng, thực hiện chính sách nhất quán đoàn kết, tranh thủ tất cả các nước, chống và làm thất bại âm mưu của Mỹ chia rẽ Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng miền Nam thì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một thuận lợi chưa bao giờ có đối với cách mạng nước ta.

Trước những luận điệu xuyên tạc đánh lạc hướng dư luận, biện hộ cho hành động đưa quân vào xâm lược nước ta của Mỹ, chúng ta đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại, vạch rõ âm mưu và những tội ác của đế quốc Mỹ với nhân dân Việt Nam, làm cho nhân dân và chính phủ nhiều nước ở Á, Phi, Mỹ Latinh đồng tình, ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta, phản đối chính sách hiếu chiến, xâm lược của đế quốc Mỹ. Ngay chính tại nước Mỹ, phong trào phản đối chiến tranh tại Việt Nam ngày càng lan rộng, phong trào mạnh mẽ đến mức báo chí thế giới phải thừa nhận “Đây là một phong trào chống chiến tranh không những chưa từng có ở Mỹ cũng như chưa từng có trong lịch sử nhân loại”[2]. Một số nước đồng minh của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam như Australia, New Zealand,...cũng phản ứng gay gắt trước hành động lấn chiếm, vi phạm Hiệp định Paris của chính quyền Thiệu.

Như vậy, cùng với mặt trận đoàn kết dân tộc, mặt trận đoàn kết quốc tế đã góp phần làm nên Đại thắng mùa xuân 1975. Đánh giá về những nhân tố làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định “Nhờ kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, nhờ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng, chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ rất lớn về tinh thần và vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của tất cả các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo thành một mặt trận quốc tế rộng lớn chưa từng có ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược”[3]. Chúng ta đã tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng giành độc lập dân tộc với bao thử thách, hy sinh.

Ngày nay, trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa cũng gặp không ít khó khăn, thách thức:

Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng có nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, căng thẳng xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính, tiền tệ, điện tử viễn thông, sinh học, môi trường,...còn tiếp tục gia tăng. Xu hướng toàn cầu hóa và cạnh tranh kinh tế thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao,…giữa các nước ngày càng gay gắt, đan xen nhau.

Ở trong nước, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã và đang trở thành lực cản việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và giảm sút niềm tin trong nhân dân; các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, lợi dụng các vấn đề nhân quyền, tôn giáo hòng ly gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Đứng trước tình hình đó, đoàn kết quốc tế, đoàn kết toàn dân, tăng cường đồng thuận xã hội để tiến thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” trở thành vấn đề bức thiết hơn bao giờ hết. Trải qua 39 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước nhưng hào khí của chiến thắng 30/4/1975 vẫn là ngọn đuốc sáng dẫn đường cho toàn dân tộc Việt Nam chung sức chung lòng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN./.

___________________________________

Ghi chú:

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc Gia, H.2000, t.31, tr.239.

[2]. Bộ Ngoại giao: Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.347. 

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, H.1977, tr.23.

Ngày Đăng :
Nguyễn Thị Hiền
Phòng Đào tạo
 

Một ngày tháng năm lại về, cả nước hân hoan đón mừng sinh nhật Bác, vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, cả cuộc đời Người luôn dành trọn tình yêu thương cho quê hương, đất nước, Bác luôn quên mình vì dân tộc, luôn nghỉ cho đồng bào. Với Bác, đức tính tiết kiệm thời gian là rất quý báu, ở Người, luôn quý trọng và sử dụng có hiệu quả thời gian bằng cách sắp xếp kế hoạch cụ thể, chi tiết và tác phong hiện đại để sao không lãng phí thời gian một cách vô ích, Người luôn cần mẫn tận dụng thời gian làm việc. Tiết kiệm thời gian của Bác không chỉ là tiết kiệm cho mình mà còn không để lãng phí thời gian cho mọi người. Câu chuyện “Thời gian quý báu lắm” là một trong những cách thể hiện đó.

Theo lời kể của đồng chí Huy Vân: “Sinh thời, Bác Hồ của chúng ta yêu cái gì nhất, ghét cái gì nhất? Kể cũng khó trả lời cho thật chính xác, bởi ở ta không có thói quen “tự bạch” và kín đáo, ý nhị vốn là một đặc điểm của lối ứng xử phương Đông.

Tuy nhiên, theo dõi qua tác phẩm, hoạt động và sinh hoạt đời thường, điều ta có thể thấy rõ cái mà Người ghét nhất, “ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm” là các thói quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí tiền bạc và thời gian của nhân dân.

Ở một mức độ khác, thấp hơn, những người có điều kiện tiếp xúc và làm việc với Bác Hồ, đều thấy rõ nhất là Bác rất khó chịu khi thấy cán bộ làm việc không đúng giờ.

Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khoá V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Người thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”.

Trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí cấp tướng đến làm việc với Bác sai hẹn mất 15 phút, tất nhiên là có lý do: Mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác bảo:

- Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai đi bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan, không chuẩn bị đầy đủ các phương án, nên chú đã không giành được chủ động.

Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp. Bác hỏi:

- Chú đến chậm mấy phút?

- Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!

- Chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.

Bác quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu, vì vậy thường không bao giờ để bất cứ ai phải đợi mình.

Năm 1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em trí thức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Tin vui đến làm náo nức cả lớp học, mọi người hồi hộp chờ đợi.

Bỗng chuyển trời đột ngột, mây đen ùn ùn kéo tới, rồi một cơn mưa dồn dập, xối xả, tối đất, tối trời, hai ba tiếng đồng hồ không dứt. Ai cũng xuýt xoa, tiếc rẻ: Mưa thế này, Bác đến sao được nữa, trời hại quá.

Giữa lúc trời đang trút nước, lòng người đang thất vọng, thì từ ngoài hiên lớp học có tiếng rì rào, rồi bật lên thành tiếng reo át cả tiếng mưa ngàn, suối lũ:

- Bác đến rồi, anh em ơi! Bác đến rồi!

Trong chiếc áo mưa ướt sũng nước, quần sắn đến quá đầu gối, đầu đội nón, Bác hiện ra giữa niềm ngạc nhiên, hân hoan và sung sướng của tất cả mọi người.

Về sau, anh em được biết: Giữa lúc Bác chuẩn bị đến thăm lớp thì trời đổ mưa to. Các đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị Bác cho báo hoãn đến một buổi khác. Có đồng chí đề nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác...

Nhưng Bác không đồng ý: “Đã hẹn thì phải đến, đến cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì biết đến khi nào? Thà chỉ một mình Bác và một vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cho cả lớp học phải chờ uổng công!”.

Ba năm sau, giữa thủ đô Hà Nội đang vào xuân, câu chuyện có thêm một đoạn mới. Vào dịp tết cổ truyền của dân tộc, hàng trăm đại biểu các tầng lớp nhân dân thủ đô tập trung tại Uỷ ban Hành chính thành phố để lên chúc tết Bác Hồ. Sắp đến giờ lên đường, trời bỗng đổ mưa như trút. Giữa lúc mọi người còn đang lúng túng thu xếp phương tiện cho đoàn đi để Bác khỏi phải chờ lâu thì bỗng xịch, một chiếc xe đậu trước cửa. Bác Hồ từ trên xe bước xuống, cầm ô đi vào, lần lượt bắt tay, chúc tết mỗi người, trong nỗi bất ngờ rưng rưng cảm động của các đại biểu.

Thì ra, thấy trời mưa to, thông cảm với khó khăn của ban tổ chức và không muốn các đại biểu vì mình mà vất vả, Bác chủ động, tự thân đến tại chỗ chúc tết các đại biểu trước. Thật đúng là mối hằng tâm của một lãnh tụ suốt đời quên mình, chỉ nghĩ đến nhân dân, cho đến tận phút lâm chung, vẫn không quên dặn lại: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân” (Trích trong cuốn 117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh).

Câu chuyện như một cảnh trong bộ phim tư liệu về một bài học triết lý sâu sắc về sử dụng hiệu quả quỹ thời gian, luôn hết sức tiết kiệm, không để lãng phí. Càng quý thời gian của mình bao nhiêu, Bác càng quý thời gian của người khác bấy nhiêu.

Chúng ta có thể thấy, thời gian là yếu tố quan trọng không thể thiếu, có thời gian là có tất cả. Thời gian qua đi không lấy lại được, như C.Mác nói: “Mọi tiết kiệm, suy cho cùng là tiết kiệm thời gian”, không có thời gian thì chúng ta không làm được việc gì cả. Từ xưa, dân gian cũng đã có câu: “Thì giờ là vàng bạc”.

Ngày nay, đất nước đã và đang hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, phấn đấu đưa nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại. Để thực hiện mục tiêu đó, trong mỗi chúng ta cần phải học tập và làm theo tấm gương của Bác, đặc biệt là thực hiện lời dạy của Bác về tiết kiệm và sử dụng hiệu quả thời gian. Mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần tích cực thi đua lao động, học tập, sản xuất, tranh thủ thời gian, thời cơ thách thức để thúc đẩy nền kinh tế nước nhà phát triển. Mỗi người chúng ta sử dụng hiệu quả thời gian bằng cách sắp xếp kế hoạch cụ thể, chi tiết và tác phong hiện đại, để sao không bị lãng phí thời gian một cách vô ích. Không chỉ tiết kiệm cho riêng mình mà quan trọng hơn là làm việc đúng giờ. Một con người hiện đại chính là biết quý trọng thời gian và cũng là biện pháp để chúng ta rèn luyện phẩm chất tốt đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa./.

Ngày Đăng :
GVC Võ Thành Công
Phó Hiệu Trưởng Trường Chính trị
 

Trong hoạt động của Trường Chính trị, đội ngũ cán bộ giảng viên có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì, nhiệm vụ người giảng viên không chỉ truyền thụ kiến thức về lý luận chính trị, khoa học hành chính, kỹ năng lãnh đạo, quản lý,…cho người học mà còn là tấm gương sáng, mẫu mực về đạo đức, lối sống cả trong học tập và rèn luyện trước mọi người. Quy định số 184-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã nhấn mạnh: “Trong tổng biên chế có từ 2/3 trở lên là cán bộ giảng dạy và nghiên cứu”. Đồng thời, Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong Hội nghị TW8 (Khóa XI) đã nhấn mạnh nhiệm vụ, giải pháp “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo”.

Dù rất nhiều cố gắng nhưng so với yêu cầu, nhiệm vụ trên, đội ngũ cán bộ giảng viên của Trường Chính trị Bến Tre hiện nay vẫn chưa đạt về số lượng và hạn chế nhất định về chất lượng. Vì vậy, tăng cường năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ giảng viên nhà trường là vấn đề luôn được Đảng ủy, Ban Giám hiệu quan tâm nhưng về biện pháp cụ thể có hiệu quả, mang tính khả thi cao thì vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin nêu một vài biện pháp theo suy nghĩ bước đầu của cá nhân để mọi người cùng trao đổi thêm.

Theo tôi, để xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên của Trường Chính trị  Bến Tre đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao, cần thực hiện các biện pháp cụ thể và đồng bộ sau:

1. Mỗi cán bộ giảng viên cần nhận thức rõ vị trí công tác, chức trách, nhiệm vụ của mình. Không ngừng học tập để nâng cao kiến thức, phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng tốt yêu cầu về chuẩn ngạch của từng giảng viên và nhiệm vụ được giao. Khắc phục khó khan, có ý thức tự học và ý chí vươn lên, rèn luyện kỹ năng, phương pháp tự học, tự nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức khoa học, công nghệ và nghệ thuật sư phạm. Cần xác định việc tự học của người cán bộ giảng viên vừa là quá trình để tự hoàn thiện mình, vừa là để nêu gương cho người học. Mỗi cán bộ giảng viên cần thường xuyên nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy, áp dụng công nghệ thông tin vào bài giảng và xử lý tốt các tình huống sư phạm.

2. Đối với đội ngũ cán bộ giảng viên chuyên trách và cả giảng viên kiêm chức hiện có của Trường. Khi cần đào tạo nâng cao trình độ thì cần đào tạo đúng chuyên ngành đã học trước đó, không nên chỉ qua lớp học “chuyển đổi” vài tháng là có thể đào tạo trên đại học thuộc một chuyên ngành khác. Bởi vì, như vậy người giảng viên có thể có kiến thức chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó nhưng kiến thức cơ bản thì có thể còn hụt hẫng. Trong khi yêu cầu đào tạo của Trường Chính trị cấp tỉnh chủ yếu là chương trình trung cấp chính trị-hành chính dành cho đối tượng là cán bộ cấp cơ sở thuộc xã, phường, thị trấn rất cần được trang bị những kiến thức cơ bản, có tính hệ thống. Do vậy, theo tôi trường hợp này nên đưa học đại học “văn bằng hai” đúng với chuyên ngành cần đào tạo trình độ trên đại học sau này.

3. Đối với các trường hợp cử cán bộ đi nghiên cứu sinh để bảo vệ luận án tiến sĩ, Đảng ủy nhà trường cần căn cứ vào quy hoạch cán bộ, kế hoạch đào tạo cán bộ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và mạnh dạn đưa đi đào tạo đối với các đồng chí đủ điều kiện theo yêu cầu chiêu sinh của các cơ sở đào tạo. Không nên chỉ dựa vào sự tự giác đăng ký đi học của cán bộ. Bởi thực tế, hầu hết các trường hợp trong diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý của Trường thường nêu nhiều lý do khó khăn để từ chối đi học. Ban Giám hiệu, Ban Chấp hành Công đoàn của Trường cần có sự quan tâm hỗ trợ cần thiết về cả vật chất và tinh thần đối với các đồng chí được đưa đi đào tạo các loại chương trình.

4. Bên cạnh việc tích cực tuyển dụng các sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi, đúng chuyên ngành các Khoa đang cần, có khả năng làm công tác giảng dạy, bổ sung vào biên chế của Trường; Đảng ủy, Ban Giám hiệu cần tranh thủ sự đồng tình của các huyện ủy, thành ủy để đề nghị cấp có thẩm quyền điều chuyển một số cán bộ giảng viên trẻ, đã qua đào tạo lý luận cơ bản, có năng lực giảng dạy tốt ở các Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện (qua đánh giá từ Hội thi giảng viên giỏi cấp tỉnh do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hàng năm) để bổ sung cho đội ngũ giảng viên các Khoa của Trường Chính trị.

Để xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ giảng viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Tất nhiên, cần thực hiện rất nhiều biện pháp cả trước mắt và cơ bản lâu dài. Song, với điều kiện thực tế của Trường, nếu có sự thống nhất về quan điểm và các biện pháp trên được thực hiện đồng bộ, nhất quán, tin rằng đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị Bến Tre sẽ không ngừng phát triển, thực hiện ngày càng tốt hơn chức tránh, nhiệm vụ được giao./.

Ngày Đăng :
Thạc sĩ Phạm Huỳnh Minh Hùng
Khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
 

Năm 1946, trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau, Người đã có lời căn dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng về kế sách quản lý, điều hành đất nước trong điều kiện chính quyền cách mạng còn non trẻ và đang ở tình thế “Nghìn cân treo sợi tóc” trước sự chống phá của các lực lượng phản động với câu nói bất hủ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Trong các nền triết học từ xưa đến nay một trong các vấn đề trung tâm luôn được bàn đến là mối quan hệ giữa cái bản thể và cái hiện tượng, giữa cái bất biến và cái vạn biến. Trong đó, bản thể là cái không thay đổi so với hiện tượng. Còn hiện tượng thì đa dạng, phong phú luôn vận động, biến đổi, chuyển hoá nhưng đều xoay quanh trục của nó là bản thể. Ý nghĩa triết lý của vấn đề này là ở chỗ trong cuộc sống mỗi người nên nắm cái bản thể, tức là nắm giữ cái lớn lao, cái căn bản, cái lâu dài, cái toàn cục đừng sa vào những việc vụn vặt, nhỏ nhen nhất thời. Nên đứng ở cái “chốt”, cái bất biến mà quan sát và hành động để dung hoà, quân bình vạn vật. Lịch sử cho thấy các bậc thánh nhân, người hiền luôn đứng ở cái bất biến mà quan sát vạn biến. Dùng cái bất biến ứng phó cái vạn biến mà làm cho thánh nhân trường cửu, thánh nhân bất biến. Cho nên, trong cuộc sống điều cốt yếu là ta phải nhận ra đâu là cái vĩnh hằng trong cái tạm thời, đâu là cái toàn bộ trong cái cục bộ, đâu là cái lâu dài trong cái trước mắt, đâu là cái bản chất trong cái hiện tượng, đâu là cái bất biến trong vô vàn cái vạn biến.

Kế thừa những tinh hoa về tư tưởng biện chứng của các bậc tiền nhân, Hồ Chí Minh đã vận dụng triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” rất đặc sắc và uyên thâm. Tuy triết lý này không được Người trình bày, giảng giải cụ thể nhưng xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình Hồ Chí Minh đã vận dụng nó một cách sáng tạo từ những năm bôn ba tìm đường cứu nước đến suốt quá trình lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như khi Người ở cương vị là Chủ tịch nước, qua đó góp phần đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.

Trong nội dung triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” ở Hồ Chí Minh cho thấy có năm cái lớn, cơ bản gắn bó chặt chẽ, quan hệ mật thiết với nhau và cùng quy định đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc và hạnh phúc của nhân dân đó là: Độc lập, dân chủ, giàu mạnh, tự do và hạnh phúc. Năm nội dung này được phân chia thành hai cấp độ: Cấp độ thứ nhất: Độc lập; Cấp độ thứ hai: Dân chủ, giàu mạnh, tự do và hạnh phúc.

Trong hai cấp độ trên thì cấp độ thứ nhất giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, đầu tiên là phải độc lập. Vì không có độc lập là vong quốc, bị kẻ thù xâm lược và đô hộ, nhân dân bị áp bức và bóc lột thì lấy đâu ra tự do, dân chủ, hạnh phúc và giàu mạnh. Cho nên, độc lập là cái bất biến cao nhất và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Thấu hiểu tình cảnh nước mất nhà tan, xã hội điêu linh, nhân dân lầm than mà Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước cũng là mong sao giành được độc lập cho dân tộc. Người khẳng định: Cái mà tôi cần nhất là Tổ quốc tôi được độc lập; dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên ngôn độc lập, Người tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới rằng: Bằng mọi giá phải giữ vững thành quả cách mạng “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Khi thực dân Pháp âm mưu muốn cướp nước ta một lần nữa thì trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định dứt khoát “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó cũng là tinh thần quật cường “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” bởi với Hồ Chí Minh chỉ có một chân lý đó là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Khi giải quyết được cấp độ thứ nhất thì đây là cơ sở, tiền đề để giải quyết cấp độ thứ hai. Theo Hồ Chí Minh, có độc lập rồi phải lập tức xây dựng nhà nước dân chủ đích thực. Nghĩa là phải xây dựng một nhà nước kiểu mới thật sự của dân, do dân và vì dân. Trong tác phẩm “Dân vận” với bút danh X.Y.Z đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15/10/1949, Người viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Có như vậy mới đem lại tự do, hạnh phúc cho dân vì theo Người “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì”. Phát biểu trong buổi họp đầu tiên của Uỷ ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu giành độc lập. Chúng ta đã giành được rồi...Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Tất nhiên, việc đem lại hạnh phúc, giàu mạnh cho nhân dân không dễ dàng. Bác cho rằng thắng đế quốc, phong kiến còn tương đối dễ nhưng thắng bần cùng, nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn nhiều. Đây là cuộc chiến khó khăn nhất, sâu sắc nhất, gay go nhất, gian khổ nhất nhưng cũng vinh quang nhất. Vì vậy, khi “đã hy sinh làm cách mạng thì nên làm cho đến nơi để khỏi phải hy sinh nhiều lần, để dân chúng được hạnh phúc”. Khi cách mạng thành công thì người cán bộ phải đồng hành cùng nhân dân, phải biết hy sinh, là đầy tớ của nhân dân; phải lo cái lo trước dân và vui cái vui sau dân; việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.

Điều cần lưu ý độc lập ở Hồ Chí Minh là độc lập trong thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và độc lập trong hoà bình. Theo Hồ Chí Minh, độc lập mà không thống nhất thì nền độc lập đó chưa trọn vẹn. Ngày 31/5/1946, Hồ Chủ tịch viết bức thư gửi đồng bào Nam bộ trước lúc Người lên đường sang Pháp có đoạn “Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn. Song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Trả lời báo giới ở Paris năm 1946 Hồ Chủ tịch nói: “Nam bộ là lãnh thổ của Việt Nam. Đó là thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi. Điều đó dựa trên những nguyên nhân về nguồn gốc và chủng tộc, lịch sử và văn hóa...Không ai có quyền chia rẽ và không lực lượng nào có thể chia rẽ Nam bộ khỏi Việt Nam. Không có xứ Nam kỳ mà chỉ có một nước Việt Nam, một lịch sử thống nhất của Việt Nam”. Ngày 21/10/1946, Hồ Chủ tịch về tới Hà Nội. Người tuyên bố rằng “Dân Việt Nam ta đã đủ tư cách độc lập tự do. Ai không thừa nhận ta tự do độc lập thì không được. Bắc, Trung, Nam là đất nước Việt Nam. Chúng ta đều chung một tổ tiên, dòng họ, đều là ruột thịt, anh em. Không ai có thể chia rẽ con một nhà, không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam. Một ngày nào Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi còn ăn không ngon, ngủ không yên”.

Khi các yếu tố trong cấp độ thứ hai như dân chủ, tự do, giàu mạnh, hạnh phúc được thực hiện tốt đến lượt nó tác động trở lại cấp độ thứ nhất làm cho độc lập dân tộc càng được giữ vững, cái bất biến càng trở nên trường tồn, vĩnh hằng. Có độc lập, hoà bình thì tiếp theo phải làm cho nước nhà được giàu mạnh. Dân có giàu, nước có mạnh, trên dưới đoàn kết thống nhất một lòng, nhân dân tuyệt đối tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng thì mới có đủ thực lực giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không bị lệ thuộc trên bất kỳ phương diện nào từ những thế lực cường quyền nào cũng như vững vàng vượt qua những âm mưu, thủ đoạn chống phá từ những lực lượng thù địch trong và ngoài nước.

Trong triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” nội dung cốt lõi là để đảm bảo giữ vững cái bất biến thì có thể thực hiện bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau để cuối cùng vẫn quay về với cái bất biến. Trong những lúc tình thế cách mạng khó khăn nhất thì không được xa rời, vứt bỏ cái bất biến và càng tuyệt đối không đem cái bất biến, cái thuộc về bản chất, có tính nguyên tắc ra mua bán, thương lượng, thoả hiệp. Hoàn cảnh cuộc sống luôn thay đổi, sự nghiệp cách mạng, tình thế cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể luôn đặt ra những yêu cầu mới nên xét về mặt sách lược, phương pháp, bước đi cũng phải linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển, có thể hoà hoãn, nhân nhượng thậm chí chấp nhận những bước lùi nhất thời trong xử trí từng vấn đề cụ thể. Nhưng dù có mềm dẻo, linh hoạt, nhân nhượng hay lùi bước như thế nào đi chăng nữa cũng phải trên nguyên tắc lùi để tiến xa hơn, vạn biến cũng là vì cái bất biến. Điều này đã được Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng tài tình trong giai đoạn cách mạng 1945-1946 thông qua việc ký Hiệp định sơ bộ 06/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Hay như trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã được Hồ Chí Minh đặt lên vai đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bác nói “Tổng Tư lệnh ra mặt trận “Tướng quân tại ngoại”. Thay mặt Trung ương, Bác giao cho chú toàn quyền”. Người căn dặn “Trận này rất quan trọng. Phải đánh cho thắng, chắc thắng thì mới đánh. Không chắc thắng không đánh”. Chính tư tưởng này là cẩm nang để trên thực tế diễn biến của chiến dịch đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định thay đổi phương châm từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc” làm nên thắng lợi lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang đi vào chiều sâu và đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng trên nhiều lĩnh vực: Kinh tế không ngừng tăng trưởng bền vững, chính trị được giữ vững và ổn định, hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng thế và lực của Việt Nam không ngừng được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện...Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức đối với đất nước không hề giảm đi mà thậm chí còn gia tăng. Đặc biệt, bốn nguy cơ mà Đảng ta xác định có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của dân tộc và chế độ vẫn còn tồn tại. Điều này càng đòi hỏi Đảng ta cần nhận thức sâu sắc hơn và quán triệt triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh. Cái bất biến ở đây là sự kiên định, nhất quán, có tính nguyên tắc trên các nội dung sau:

- Thứ nhất, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Trong xu thế toàn cầu hoá với vô số các mối quan hệ song phương, đa phương đan xen giữa hợp tác và đấu tranh nhưng quan điểm của Đảng ta trong hợp tác quốc tế phải trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hợp tác để phát triển nhưng tuyệt đối không để bị lệ thuộc về kinh tế dẫn đến áp bức về chính trị. Trong tranh chấp chủ quyền biển đảo trước sau như một, Đảng ta và nhân dân ta luôn khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, đó là cái bất biến.

- Thứ hai, phải kiên định nhất nguyên chính trị, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng, đồng thời phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng. Bởi lẽ, Chủ nghĩa Mác-Lênin trong dòng chảy của tư tưởng nhân loại qua mọi thời đại là một học thuyết hoàn bị nhất, cách mạng nhất và khoa học nhất. Trong khi đó Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bởi Chủ nghĩa Mác-Lênin, lại từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Xuất phát từ mục đích, tôn chỉ trên càng làm cho vai trò của Đảng ta không thể bị thay thế bởi bất kỳ một lực lượng đảng phái nào khác. Tuyệt đối không thể đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

- Thứ ba, trong quá trình đổi mới phải đẩy mạnh sản xuất hàng hoá gắn với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có mở rộng sản xuất hàng hoá, thực hiện nền kinh tế thị trường mới tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững nhưng phải đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nét đặc thù và chỉ có như thế mới thể hiện được bản chất ưu việt của chế độ ta.

- Thứ tư, cùng với xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam phải đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng trên tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt thể chế chính trị, sẵn sàng khép lại quá khứ hướng tới tương lai, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Nhưng trong quá trình hội nhập tuyệt đối không bị hoà tan, không tự đánh mất mình, không trở thành cái bóng của người khác; vẫn giữ vững được bản sắc văn hoá, cốt cách của con người, dân tộc Việt Nam.

Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ẩn chứa sự uyên thâm, tinh tế của một nhà hiền triết. Tư tưởng này không chỉ được vận dụng có hiệu quả trong thời kỳ của Hồ Chí Minh mà nó trở thành phương châm hành động, là phương pháp luận, là cẩm nang cho Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và nhất là trong giai đoạn hiện nay./.

Ngày Đăng :
Thạc sĩ Nguyễn Thị Phượng
                                                                                    Phòng NCKH-TT-TL
 

Đối với mỗi quốc gia dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng - bất khả xâm phạm. Để có được giang sơn gấm vóc ngày nay, dân tộc ta đã phải trải qua thời gian dài gian khổ hy sinh, phải đổ biết bao mồ hôi, xương máu và trí tuệ trong suốt hằng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong đó, quần đảo Hoàng sa và Trường sa mãi mãi là lãnh thổ của Việt Nam.

Nước ta là một dải đất hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo, biên giới đất liền dài 4.510 km[1].

Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam dài 1.650 km, từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây nơi rộng nhất 600 km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50 km (Quảng Bình).

Việt Nam có 12 hải lý ranh giới lãnh hải, thêm 12 hải lý tiếp giáp nữa theo thông lệ Quốc tế và vùng an ninh, 200 hải lý làm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Ven bờ Việt Nam có 2.779 hòn đảo lớn nhỏ hợp thành một hệ thống với tổng diện tích 1.636 km2. Do đặc điểm kiến tạo, các đảo này phân bố không đều chủ yếu tập trung ở hai vịnh, vịnh Bắc Bộ và Nam Bộ.

Trong 2.779 hòn đảo ven bờ Việt Nam, có 82 đảo có diện tích hơn 1km2 chiếm 92% tổng diện tích. Trong đó, có 23 đảo có diện tích lớn hơn 10km2, 3 đảo có diện tích lớn hơn 100 km2 và 1.295 đảo nhỏ chưa có tên. Tuy phân bố không đồng đều nhưng trên tất cả các vùng biển ven bờ Việt Nam đều có các đảo che chắn ở các mức độ khác nhau.

Việt Nam có 2 quần đảo xa bờ là Hoàng sa và Trường Sa.

Quần đảo Hoàng sa nằm ngoài vịnh Bắc Bộ ở phía Bắc biển Đông, cách Đà Nẵng khoảng 170 hải lý về phía Đông. Số đảo đá, bãi nổi của quần đảo nhiều ít tùy theo cách tính nước triều lên xuống, nhưng gồm rất nhiều đảo nhỏ các cỡ, đá, bãi nổi, bãi ngầm rải rác trong một vùng rộng khoảng 16.000km2.

Có những đảo nổi hẳn lên mặt nước hoặc chỉ những bãi cát phẳng nhô cao không có cây cối như đảo Tri Tôn, có đảo nhô lên mặt nước như đảo Phú Lâm. Hoàng Sa, Hữu Nhật, Quang ánh…

Các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa hình thành hai nhóm: Nhóm đảo phía Đông còn gọi là nhóm đảo An Vinh gồm những đảo chính: Phú Lâm, đảo Tây, đảo Cây, đảo Bắc, đảo giữa, đảo Linh Côn. Nhóm đảo phía Tây còn gọi là đảo Lưỡi Liềm gồm các đảo chính: Hoàng Sa, Quang Ánh, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa, Bách Quy,…ở cực Nam là đảo Tri Tôn.

Quần đảo Trường Sa nằm ở phía Nam Biển Đông, cách vịnh Cam Ranh khoảng 480km, cách đảo Hải Nam khoảng 1.150km. Có đảo có dạng hình vành khăn như đảo Subi. Có những bãi nước triều xuống mới nổi như bãi Thuyền Chài dài khoảng 32km, rộng 5-6km. Quần đảo có 23 hòn đảo đá, với tổng cộng khoảng 10km2. Đảo lớn là đảo Ba Bình, đảo Nam Yết, đảo Sông tử Đông, Sông tử Tây, Thị Tứ, Loại Ta, Sinh Tồn, Vĩnh Viễn, An Bang, Bến Lạc [2].

Quần đảo Trường Sa mãi mãi xứng đáng là “nơi đầu sóng ngọn gió”, là vị trí tiền tiêu của Tổ quốc Việt Nam.

Đảo Sông Tử tây cách bờ biển nước ta khoảng 450km, đảo dài khoảng 700m, rộng 300m. Tấm bia chủ quyền mang cờ đỏ sao vàng cao hơn 2m đặt gần đúng trung tâm đảo. Trên đường đi đến đảo Nam Yết, nếu chúng ta thường gặp tàu treo cờ nước ngoài thì đó là vì hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trên tuyến hàng hải ngang qua Biển Đông. Đảo Nam Yết dài gần 800m, rộng 200m, từ đảo Nam Yết đi về phía Đông Bắc khoảng 18 hải lý là đảo Sơn Ca. Đây là đảo nhỏ, nhiều cát, nổi lên giữa bãi san hô.

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hai đảo san hô ở giữa Biển Đông, từ xa xưa đã gắn liền với cuộc sống nhân dân ta bao đời nay, là vùng lãnh thổ thân thiết thuộc chủ quyền của nước ta. Trên đảo Hoàng Sa có trạm khí tượng được thành lập năm 1938 và một đài khí tượng vô tuyến điện với mã số 48.860 (48 chỉ số liệu khu vực của Việt Nam, 860 là biểu số trạm khí tượng) [3].

Hằng mấy trăm năm lịch sử, ông cha ta đã đổ biết bao mồ hôi công sức, xương máu để tuyên bố khẳng định và bảo vệ chủ quyền đối với biển đảo của đất nước mình, quyết không để một tấc đất nào bị các thế lực thù địch bên ngoài lấn chiếm. Từ bao đời cho đến nay biết bao tấm gương anh dũng, kiên trung bảo vệ tổ quốc, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, mảnh đất thiêng liêng của tổ quốc mình.

Hiện nay, trong xu thế hội nhập, Việt nam càng khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình trên cơ sở luật pháp quốc gia là các cứ liệu lịch sử mang tính pháp lý hẳn hoi, chứng minh chủ quyền biển đảo của Việt Nam liên tục qua các thời kỳ lịch sử một số nội dung văn bản từ các triều đại Phong kiến Việt Nam như thời chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi đến đầu triều Nguyễn từ vua Gia Long đến các triều Minh Mạng, Thiệu Trị qua hoạt động thủy quân Đại Nam nhất thống chí (bắt đầu soạn năm 1865, xong 1882 và ấn hành năm 1910) luôn luôn khẳng định Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam và Công ước Quốc tế về Luật Biển năm 1982.

 

Triển lãm thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân

Các nhà nước Việt Nam từ thời kỳ phong kiến cho đến thời kỳ hiện nay đã khai phá, xác lập, thực thi và bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như những vùng biển đảo khác trong Biển Đông. Những tư liệu, bản đồ tại triển lãm lần này là những bằng chứng vững chắc về chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời bác bỏ những luận điệu xuyên tạc lịch sử, những yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Những bằng chứng này bao gồm: Các văn bản Hán Nôm, văn bản Việt ngữ và Pháp ngữ do triều đình phong kiến Việt Nam và chính quyền Pháp ở Đông Dương, thay mặt nhà nước Việt Nam đương thời, ban hành từ TK XVII đến đầu TK XX, khẳng định Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền liên tục đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó, đáng chú ý là 20 bản sao Châu bản triều Nguyễn, niên đại từ triều vua Gia Long (1802-1819) đến triều Bảo Đại (1925-1945).

Một số tư liệu, ấn phẩm do các nước phương Tây biên soạn và xuất bản từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sưu tập 65 bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do Việt Nam, phương Tây công bố từ thế kỷ XVII đến nay. Đáng chú ý hơn là 4 cuốn atlas do nhà Thanh và Chính phủ Trung Hoa Dân quốc xuất bản gồm: Trung Quốc địa đồ (xuất bản 1908), Trung Quốc toàn đồ (xuất bản 1917), Trung Hoa bưu chính dư đồ (xuất bản 1919) và Trung Hoa dư chính bưu đồ (xuất bản 1933). Các atlas này là sản phẩm của chương trình thiết lập bản đồ bưu chính do nhà Thanh vạch ra vào năm 1906 và được Chính phủ Trung Hoa Dân quốc kế tục vào các năm sau đó. Cương giới cực Nam của Trung Quốc trong các atlas này luôn chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam, không hề nhắc đến Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam [4].

Hiện nay vấn đề tình hình biển Đông đang diễn biến phức tạp đáng lo ngại, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá nước ta, đưa ra những luận điệu xâm hại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là đường “lưỡi bò”, đường chữ “U” hay đường “đứt khúc 9 đọan” mà chúng đã công bố.

 Với cứ liệu nêu trên, làm căn cứ nhằm giúp cho mỗi cán bộ, công chức, nhân dân phải thấm nhuần, khơi dậy truyền thống yêu nước của cả dân tộc, tinh thần tự tôn, tự cường, lòng tự hào dân tộc, lớp lớp thế hệ người Việt Nam dù sống, cư trú, làm việc hay học tập ở bất cứ nơi đâu cũng phải luôn luôn bảo vệ từng tấc đất biên cương Tổ quốc mà tổ tiên để lại, giữ vững, bảo vệ nền độc lập, chủ quyền biển đảo Việt Nam. Tùy vị trí, vai trò, nhiệm vụ của mỗi công dân Việt Nam chúng ta đều phải có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước mà tìm hiểu, đọc thêm những kiến thức về biển đảo của Việt Nam để càng thêm yêu, thêm tự hào với di sản thiêng liêng mà cha ông đã để lại cho chúng ta, phải kiên quyết bảo vệ chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mãi mãi là lãnh thổ Việt Nam [5]./.

_______________________________

Ghi chú:

[1]. Tổng quan về  biển Việt Nam, NXB Thống kê, năm 1980, trích trong cuốn “Dư địa chí của Nguyễn Trãi”, năm 1435 thời vua Lê Thánh Tông, tr.9.

[2]. Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam, NXB Thời Đại, năm 2011 của Nguyễn Thái Anh, tr.6.

[3]. Một số Tư liệu lịch sử, pháp lý về chủ quyền của Việt Nam, NXB Thời Đại, năm 2011 của nhóm tác giả Nguyễn Thái Anh,  Nguyễn Đức và Đàm Xuân, tr. 33.

[4]. Các Văn bản của Đảng và Nhà nước CH XHCN Việt Nam cũng như Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, NXB thống kê, tr.47.

[5]. Chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường sa, NXB Thời Đại, năm 2011, tr.122-123.

Ngày Đăng :
Thạc sĩ Trần Văn Hòa
                                                                                             Khoa Xây dựng Đảng

Lần đầu tiên, nhân dân cả nước Việt Nam đã giành được độc lập dân tộc và làm chủ hoàn toàn đất nước mình sau 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc. Qua đại thắng mùa Xuân năm 1975, nhân dân và các lực lượng vũ trang nước ta đã phát triển cao độ và có điều kiện để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã mở sang một trang mới đó là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.

Đó là thắng lợi to lớn, toàn diện và triệt để của 30 năm chiến tranh giải phóng, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của dân tộc ta. Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là sự kế tục và phát triển cao độ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng tám và của cuộc kháng chiến chống Pháp, là thắng lợi triệt để của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh quyết liệt để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa thực dân mới trên đất nước ta. (khẳng định của cố Tổng bí thư Trường Chinh).

 Thắng lợi hoàn toàn của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc là một thắng lợi có tính chất thời đại, một cống hiến rất quan trọng của cách mạng Việt Nam đối với cách mạng thế giới. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đã xóa bỏ bộ máy chính quyền thân Mỹ và tiêu diệt đội quân đánh thuê của đế quốc Mỹ, chấm dứt hẳn sự can thiệp quân sự của Mỹ vào nước ta. Không chỉ giáng một đòn chí tử vào chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ mà còn phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng, làm phá sản học thuyết Nichxơn - chiến lược toàn cầu phản cách mạng của tên đế quốc đầu sỏ. Thắng lợi của nhân dân ta là sự cỗ vũ sâu rộng và mạnh mẽ đối với nhân dân tiến bộ trên thế giới góp phần tăng thêm sức mạnh của cả 3 dòng thác cách mạng, so sánh lực lượng trên thế giới thay đổi có lợi cho cách mạng nước ta;  tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách mạng trên thế giới tiếp tục phát triển và tiến công ngày càng mạnh mẽ vào chủ nghĩa đế quốc, thực dân; trực tiếp góp phần thúc đẩy quá trình diệt vong tất yếu của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn thế giới.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 không chỉ gây bất ngờ lớn cho Mỹ mà còn làm cho dư luận nước Mỹ thấy rằng việc đưa quân tham chiến với nỗ lực cao không chỉ làm căng thẳng trong xã hội Mỹ, phúc lợi giảm sút, gây nhiều hệ lụy xấu cho xã hội,...mà vẫn không đánh bại nổi được quân đối phương, trong tương lai chiến tranh không biết đến bao giờ kết thúc! Điều này đủ cơ sở đưa đến kết luận là quân xâm lược Mỹ không thể thắng được trong cuộc chiến ở Việt Nam. Các chính trị gia trong Quốc hội Mỹ gây sức ép lên chính phủ đòi xem xét lại cam kết chiến tranh, đòi huỷ bỏ uỷ quyền cho chính phủ tiến hành chiến tranh không cần phê chuẩn, thúc ép giải quyết chiến tranh bằng thương lượng. Quy mô của cuộc tiến công làm dư luận ở nước Mỹ mất kiên nhẫn và sự tin tưởng với giới quân sự.

Thắng lợi hoàn toàn và triệt để của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc đã nâng dân tộc ta lên hàng các dân tộc tiên phong trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, là kết quả tất yếu của những nhân tố tạo thành sức mạnh thần kỳ của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Với thắng lợi đó, trước hết là thắng lợi của sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, một bộ phận kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng ta tiêu biểu cho ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam anh hùng và tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp công nhân Việt Nam. Thấm nhuần sâu sắc học thuyết Mác – lênin, Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo học thuyết đó vào hoàn cảnh thực tế của nước ta để vạch ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng nước ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Thắng lợi hoàn toàn và triệt để của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc là thắng lợi của sự đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi, dựa trên cơ sở liên minh công nông vững chắc, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Tinh thần đoàn kết của nhân dân ta là điều kiện rất quan trọng để động viên toàn dân đánh giặc, tạo nên một lực lượng có khả năng chiến thắng kẻ thù dù chúng đông người và trang bị vũ khí hiện đại đến mấy đi nữa.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 chính là biểu hiện sinh động sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân từ Nam chí Bắc, từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến rừng núi, bao gồm mọi giai cấp cách mạng, mọi tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng. Với sức mạnh đoàn kết ấy, quân và dân ta đã đập tan mọi lực lượng của kẻ thù, quét sạch cả bọn cướp nước và bọn bán nước, giải phóng hoàn toàn Tổ quốc thân yêu.

Thắng lợi hoàn toàn và triệt để của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc là thắng lợi của sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, đủ sức chiến thắng quân đội xâm lược đế quốc Mỹ.

Lực lượng vũ trang nhân dân là công cụ bạo lực sắc bén của cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng của kẻ thù là lực lượng nòng cốt của toàn dân đánh giặc. Đảng ta đã xây dựng thành công lực lượng vũ trang nhân dân, hùng hậu vô địch. Lực lượng vũ trang nhân dân của ta có bản chất cách mạng tốt đẹp, có tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời, có kỷ luật tự giác, nghiêm minh, có tổ chức vững mạnh, có trang bị phương tiện kỹ thuật quân sự ngày càng hiện đại, nắm vững khoa học và nghệ thuật quân sự tiên tiến.

Thắng lợi to lớn của quân và dân ta chính là thắng lợi của cuộc chiến tranh nhân dân mang đầy đủ tính cách mạng triệt để và tính khoa học sâu sắc. Đó là một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện và lâu dài. Mỗi người dân là một chiến sĩ. Mỗi thôn xóm, mỗi đường phố là một pháo đài. Toàn quốc là một chiến trường quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Đánh địch trên tất cả các mặt trận: Quân sự, chính trị và ngoại giao. Đó là một cuộc chiến tranh nhân dân được tiến hành theo phương châm chiến lược đánh lâu dài, giành thắng lợi từng bước,...Tư tưởng nhất quán là tư tưởng tiến công, phải tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược: Rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị. Kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng. Kết hợp vũ trang với ba mũi giáp công, đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận để chiến thắng kẻ thù xâm lược...

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của ngọn cờ độc lập dân tộc, thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước oanh liệt, ngày nay được Đảng của giai cấp công nhân bồi dưỡng và phát huy lên đến đỉnh cao mới “không có gì quý hơn độc lập tự do”, chân lý đó là tiếng kèn xung trận cổ vũ nhân dân ta, hết thế hệ này đến thế hệ khác, xông lên đánh đuổi bè lũ cướp nước và bán nước, là sức mạnh vô địch của nhân dân ta đã từng đập tan xiềng xích của chủ nghĩa thực dân cũ và giờ đây, đập tan xiềng xích của chủ nghĩa thực dân mới.

Thắng lợi này là thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, lý tưởng cao đẹp nhất của loài người, khát vọng sâu xa nhất của nhân dân lao động, ngày nay đã trở thành hiện thực trên đất nước ta và cũng đã trở thành hiện thực đối với một bộ phận của nhân loại. Một chế độ mà trong đó mọi người sống trong độc lập, tự do, có cơm ăn áo mặc, được học hành, có cuộc sống tinh thần phong phú và cao đẹp, chế độ đó chính là nguồn sức mạnh vô tận, là nguồn cổ vũ của nhân dân cả nước làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Năm tháng đã trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCH TƯ Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, trang 5, 6).

 Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta đã thực hiện trọn vẹn lời dạy của Bác Hồ: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tóm lại, toàn bộ tiến trình cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 có thể nói đây là sự mẫu mực về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Đảng ta trong cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược. Sự kiện lịch sử này là đỉnh cao của nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam, điển hình trực tiếp nhất là nghệ thuật nắm bắt đúng thời cơ chiến lược, hạ quyết tâm chính xác, kịp thời; phân tích đánh giá đúng thế trận phòng ngự chiến lược của địch; chọn hướng tiến công chiến lược và mục tiêu chiến lược mở đầu chính xác. Chỉ đạo sâu sát, nhạy bén phát hiện thời cơ mới, chuyển từ tiến công chiến lược sang tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi nhanh nhất, lớn nhất; nghệ thuật tạo sức mạnh ưu thế áp đảo bằng tổng hợp sức mạnh của cả lực lượng và thế trận; nghệ thuật chọn cách đánh chiến lược - chiến dịch đúng đắn, sáng tạo, mưu lược cao. Đây cũng là những nét phát triển sáng tạo và độc đáo của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thế kỷ XX./.

Ngày Đăng :
Thạc sĩ Nguyễn Thành Phương
    Trưởng khoa LLMLN, TTHCM

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, cả cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người là tấm gương mẫu mực về sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH cho các thế hệ con người Việt Nam nói chung và cho Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng kế thừa và phát huy trong mọi hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

 Hệ thống tư tưởng của Người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được hình thành và kiểm nghiệm của lịch sử đã minh chứng một cách sinh động Người là nhà hoạt động thực tiễn, nhà lý luận tiên phong về dân tộc, về giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Có được hệ thống tư tưởng, cùng những giá trị thực tiễn ấy là quá trình bôn ba hơn ba mươi năm ra đi qua các châu lục nhằm tìm con đường cứu dân, cứu nước.

Kỷ niệm 123 năm ngày sinh của Người (19/5/1890 – 19/5/2013), 102 năm ngày Người rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước (05/6/1911- 05/6/2013) hơn một thế kỷ đã trôi qua nhưng những giá trị lý luận và thực tiễn của con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị của nó.

Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin về TKQĐ đi lên CNXH vào miền Bắc sau 1954.

C.Mác nghiên cứu CNTB trong điều kiện tự do cạnh tranh dự báo về tính tất yếu của TKQĐ lên CNXH: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ về chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.

(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t.19,tr.47.)

Về mô hình CNXH, C.Mác khẳng định:

Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp.
Xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, xác lập chế độ công hữu XHCN về TLSX.
Tạo ra cách tổ chức lao động cùng với kỹ thuật và kỷ luật lao động mới.
Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Xây dựng nhà nước kiểu mới thể hiện bản chất của GCCN.
Giải phóng con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.

Lênin nghiên cứu về CNTB khi chuyển sang giai đoạn CNĐQ khẳng định về TKQĐ: Về lý luận, không còn nghi ngờ gì nữa, rằng giữa xã hội TBCN và xã hội CSCN phải có một TKQĐ. Đó là thời kỳ đấu tranh giữa CNTB đã bị đánh bại và CNXH vừa mới phát sinh.

Từ thực tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 đến việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, viết về 30 năm hoạt động của Đảng, đăng báo Nhân Dân (06/01/1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”; rằng “Mục đích của CNXH là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội (CNXH) bao gồm:

- CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.

- CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

- CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.

- CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi.

- CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ tình hình thực tiễn của Việt Nam:

Trước hết, Người đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính chất của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên CNXH ở nước ta, từ đó phải tìm ra con đường với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt Nam.

Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người nói “Chúng ta phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.

Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị- xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng về vấn đề dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc thực hành dân chủ ở Việt Nam.

Từ thực tế tình hình cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo những giá trị lý luận và thực hành dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:

Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.

Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về vấn đề tôn giáo của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc giải quyết tình hình tôn giáo ở Việt Nam.

C.Mác khẳng định: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như là tinh thần của những trạng thái xã hội không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. (C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự Thật, H.1980, t.1,tr.14.)

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh một cách hoang đường, hư ảo, lệch lạc hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh ấy, các sức mạnh tự phát của tự nhiên đều trở nên thần bí và chi phối hoàn toàn đến đời sống con người.

 Bản chất của tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đó là sự phản ánh, song là sự phản ánh một cách hoang đường, hư ảo, lệch lạc hiện thực khách quan. (Tôn giáo là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như là tinh thần của những trạng thái xã hội không có tinh thần.)

Tôn giáo và CNXH đối lập nhau về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc.

Từ thực tế tình hình cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người cộng sản theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Người không bao giờ phản đối, bài xích các tôn giáo. Người luôn luôn tỏ thái độ tôn trọng và đề cao vai trò của những vị đã sáng lập ra các tôn giáo. Người nói: "Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và chúa Giê-su đều giống nhau. Thích Ca và Giê- su đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng"

Người dạy: "Ngày nay, đồng bào cả nước, giáo và lương, đều đoàn kết chặt chẽ, nhất tâm nhất trí như con một nhà, cương quyết giữ vững tự do độc lập..."

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào lương hay giáo đều là người Việt Nam, đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là việc lớn, 1à sự nghiệp chung không phải chỉ của một hai người. Người kêu gọi: "Lương giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, nhân dân ta nhất định sẽ thắng lợi trong công cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc, và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh".

Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng là quyền tự nhiên của người Việt Nam. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, quan tâm giáo dục cán bộ chính quyền, quân đội và các đoàn thể phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, bảo vệ đền chùa, nhà thờ các tôn giáo. Tại điều 14, chương IV, sắc lệnh số 234 do Người ký “Các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ theo pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, như mọi tổ chức khác của nhân dân”.

Ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Bác đã nêu quan điểm: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”. Người rút ra : “Chúa Giê su dạy: Đạo đức là bác ái; Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi; Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”. Người còn chỉ rõ khát vọng cao cả của các tôn giáo là: “Mục tiêu cao cả của Phật Thích Ca và Chúa GiêSu đều giống nhau: Thích Ca và GiêSu đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng”. Người đã nêu phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”.

Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm về vấn đề gia đình của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc xây dựng gia đình ở Việt Nam.

Mác và Ăngghen khi nghiên cứu về vấn đề gia đình đã khẳng định: Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái” đó là gia đình.

Sự sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ngay ra là một quan hệ song trùng: Một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ với xã hội đó cũng chính là gia đình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt. ”(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t.9, tr.523)

Hồ Chí Minh đã cho rằng, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không tách rời công cuộc giải phóng phụ nữ. Người từng viết: Ông C.Mác nói rằng: "Ai biết lịch sử thì biết rằng, muốn sửa sang xã hội không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái thì biết xã hội tiến bộ như thế nào?". Chính từ quan điểm tư tưởng của Người mà vị trí của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội nói chung và gia đình nói riêng cũng được nâng lên một tầm cao mới. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho một xã hội phồn vinh. Người phụ nữ, bên cạnh những đóng góp cho xã hội thông qua các công việc chuyên môn của mình còn là nhân tố tích cực, thậm chí khá quyết định cho một “gia đình tốt” như Bác Hồ từng nói. Tiêu chí về gia đình tốt trong thời đại hiện nay không chỉ dừng lại ở việc nuôi con khỏe, dạy con ngoan. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập đã khiến những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống có nguy cơ bị xói mòn hoặc bị xâm thực. Bên cạnh những biện pháp chung của Nhà nước, mỗi người phụ nữ Việt Nam cũng phải giữ vai trò là người gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những bài học về đạo làm người, về đức hi sinh cao cả, về tấm lòng vị tha sẽ được truyền trực tiếp từ tấm lòng người mẹ đến với những đứa con. Có biết bao câu chuyện cảm động về sự xám hối của những đứa con lầm lỗi khi có những bà mẹ kiên trì, giàu tình yêu thương, đầy trách nhiệm với cộng đồng và gia đình luôn theo sát bên cạnh. Cũng có không ít những lời cảnh tỉnh về lối sống ích kỉ của một bộ phận nhỏ các bà mẹ vô tình đã đẩy những đứa con của mình vào vòng lao lý.

Một gia đình tốt là một gia đình mà trong đó các thành viên trong gia đình phải biết yêu thương, tôn trọng lẫn nhau. Do tàn dư của tư tưởng phong kiến, người phụ trong gia đình ngay cả ở thời điểm hiện nay cũng đôi khi bị coi thường. Không ít cảnh bất bình đẳng khi người phụ nữ vừa phải gánh vác công việc xã hội, vừa phải toan lo việc gia đình. Đã thế nhiều chị còn phải chịu cảnh bị bạo hành do có những người chồng vũ phu, cư xử thiếu văn hóa. Chính Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và Luật Hôn nhân và gia đình. Người kêu gọi nhân dân bài trừ tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản, thói gia trưởng trọng nam khinh nữ. Khi đến dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ 3, Người nói: “Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng. Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận thức rõ địa vị làm chủ và nhiệm vụ làm chủ nước nhà” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, trang 294, NXBCTQG).

Năm là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về vấn đề con người XHCN của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc xây dựng con người mới XHCN làm động lực xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t.10, tr.310)

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Muốn xây dựng CNXH phải có con người XHCN, con người phải vừa hồng, vừa chuyên, đủ đức, đủ tài, có phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động tốt Người căn dặn: Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức là người vô dụng. Bao giờ Bác cũng nhấn mạnh đức là gốc.

Đối với từng đối tượng con người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều để lại những lời dạy hết sức sâu sắc.

Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người nói: "Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi". Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ quan niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất biến.

Vì vậy, không chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, "cần có con người xã hội chủ nghĩa", Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người: Con người là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.

Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử". Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.

Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.

Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.

Sáu là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm về vấn đề văn hóa XHCN của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Từ thực tế tình hình cách mạng Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo những giá trị lý luận và thực tiễn về việc xây dựng nền văn hóa mới XHCN. Người khẳng định: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra. Nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

Nhìn từ góc độ triết học ta thấy phạm trù văn hoá trong quan điểm của Hồ Chí Minh bao hàm: Ý thức xã hội với các hình thái và cấp độ tâm lý, hệ tư tưởng của nó như khoa học, chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo và tồn tại xã hội - một bộ phận của tự nhiên đã in trên mình dấu ấn hoạt động có ý thức của con người trong quá trình sinh tồn và phục vụ cho nhu cầu sinh tồn đó của con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam cần phải đạt được trong lĩnh vực văn hoá là: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc, đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: “Phải làm thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân” để xây dựng những tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình yêu thương con người; yêu cái chân, cái thiện, cái mỹ; yêu tính trung thực , chân thành thủy chung; ghét những thói hư tật xấu, những sa đọa biến chất, căm thù mọi thứ “giặc nội xâm”… Hơn nữa, chính tư tưởng đúng đắn lại được tiếp nhận không phải chỉ bằng lý trí mà còn bằng tình cảm, từ đó lại trở thành tình cảm lớn, tạo nên sự bền vững bên trong mỗi người. Mà điều này văn hóa lại có nhiều khả năng nhất. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” chính là muốn nói văn hóa đã làm cho lý trí của con người thêm sáng suốt và tình cảm con người ngày càng trở nên cao đẹp hơn.

Chủ trương trên đây thể hiện rõ ràng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giá trị văn hoá dân tộc. Người cho rằng: “Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin bao nhiêu thì càng phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông bấy nhiêu”. Người đòi hỏi phải biết giữ gìn vốn văn hoá quý báu của dân tộc, khôi phục những yếu tố tích cực trong kho tàng văn hoá dân tộc, loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Đây là quan điểm bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc có chọn lọc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bảy là, từ thực tế tình hình cách mạng Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo những giá trị lý luận và thực tiễn về đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin và đề ra những chuẩn mực về đạo đức cách mạng của người cộng sản.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

- Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:

Một là, trung với nước hiếu với dân.
Hai là, yêu thương con người.
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người.

+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.

+ Xây đi đôi với chống.

+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Tám là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tinh thần quốc tế vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam.

Khi nghiên cứu CNTB tự do cạnh tranh, C.Mác đã đề ra khẩu hiệu chiến lược nhằm đoàn kết GCVS toàn thế giới chống lại GCTS: Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại. Đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin đã phát triển khẩu hiệu của C.Mác một cách phù hợp với xu thế vận động của thời đại: Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại.

Từ thực tế tình hình cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo những giá trị lý luận và thực tiễn về đoàn kết và đại đoàn kết dân tộc.

Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người đã sử dụng khoảng 2.000 lần cụm từ "đoàn kết", "đại đoàn kết" trong các văn bản viết. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng.

Sau khi giành được độc lập dân tộc, tại nhiều hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh sức mạnh của đoàn kết: "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi". "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công!"

Đoàn kết trong Đảng,  Người viết: “Trước hết nói về Đảng-Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta”. Để giữ vững và phát huy truyền thống đó, “các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Về đoàn kết quốc tế, giữa họ tất nảy sinh tình hữu ái vô sản. Đó là tình yêu thương giữa những con người cùng cực với nhau

Quang sơn muôn dặm là nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em

Tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thêm bạn bớt thù

Điều mà chắc chắn mọi người ai cũng không thể quên là tại lễ tiễn đoàn Đại biểu Lào, Bác đã ứng khẩu đọc bài thơ:

Thương nhau mấy núi cũng trèo; Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Việt - Lào hai nước chúng ta; Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long.

Kết hợp lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mình đã hưởng cái hay của người thì phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả”.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết, hết lòng vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng và toàn dân tộc ta một hệ thống lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc, không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chiến lược chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta trong những năm tiếp theo.

Kỷ niệm 123 năm ngày sinh của Người và hơn một thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày Người ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước tìm đến chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam và khẳng định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những giá trị lý luận và thực tiễn của con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị của nó.

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ CNXH ở Việt Nam hiện nay với những thành tựu to lớn về lý luận và thực tiễn của hơn 25 năm đổi mới càng khẳng định cơ sở vững chắc những giá trị lý luận và thực tiễn của con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam mà Người đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam là duy nhất đúng đắn. Chúng ta hiện nay hoàn toàn có đầy đủ tiền đề và điều kiện để biến những hoài bảo to lớn, những ham muốn tột bậc của Người trở thành hiện thực chính là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

CHUYÊN ĐỀ

hcm

Thư viện ảnh