Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là bản anh hùng ca về lòng yêu nước, ý chí quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Bắc - Nam sum họp một nhà. Thắng lợi đã làm phong phú thêm đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta, rõ nét là nghệ thuật biết nắm thời cơ, tận dụng thời cơ, tạo lực để mở thế tiến công chiến lược giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ nghệ thuật nắm thời cơ, tranh thủ thời cơ, tạo thế giành thắng lợi trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 vận dụng vào giai đoạn hiện nay góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp, đưa đất nước vững bước tiến lên kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Hiệp định Pari – (Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam) được ký kết đã tạo thời cơ mới cho cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới, mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Nét nổi bật của thời cơ lớn mở ra sau Hiệp định Pari đó là quân Mỹ rút quân về nước, cùng với việc rút dần rồi cắt hẳn nguồn viện trợ đã khiến cho bọn tay sai của Mỹ ở miền Nam mất chỗ dựa “vững chắc”, các lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn trở nên tiêu điều, rối loạn dần đi đến suy yếu nghiêm trọng và “toàn diện” [1]. Sự kiện này đã tạo nên “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, tiếp thêm sức mạnh, tạo ra thế và lực để lực lượng của ta “càng mạnh hơn và nhất định ta sẽ thắng hoàn toàn quân ngụy” [2]. Trong điều kiện đó, vùng giải phóng của ta ngày càng rộng lớn, nối liền từ miền Bắc đến vùng giải phóng của Lào, Campuchia, tạo thành một thế đứng rất vững chắc. Lực lượng vũ trang của ta lớn mạnh được bố trí dàn trải trên các chiến trường, tạo nên một thế chiến lược liên hoàn sẵn sàng chuyển lực để tiến hành cuộc tiến công chiến lược. Nắm vững thời cơ thuận lợi đó, Đảng đã phát huy thế và lực tiến lên một giai đoạn mới, hoàn thành triệt để mục tiêu chiến lược “đánh cho ngụy nhào”, để kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ.
Tuy nhiên sau Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố, không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, chúng vẫn ngoan cố, âm mưu tiếp tục tiến hành chiến tranh để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới và chia cắt lâu dài đất nước ta. Trước tình hình trên, Đảng xác định cùng với đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự làm trụ cột, phải phát huy sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang, kiên quyết phản công và chủ động tiến công địch, giữ vững thế bố trí trên các địa bàn chiến lược, tạo thời cơ chiến lược tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đến tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã khẳng định “con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng”. Đảng nhấn mạnh, bất kể trong tình hình nào ta cũng phải “nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên” [3]. Trên cơ sở đó, Đảng kiên quyết chỉ đạo toàn quân, toàn dân luôn giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tận dụng thời cơ, tạo thế và lực để mở cuộc tiến công chiến lược để giành thắng lợi cuối cùng.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III), ngay từ đầu năm 1973, Đảng ta đã chủ động, tích cực chuẩn bị chiến lược quân sự kết hợp với hoạt động tiến công ngoại giao, tranh thủ dư luận thế giới và nghi binh, lừa địch... góp phần tạo thời cơ, giữ nguyên thế và lực của ta ở cả chiến trường miền Nam và miền Bắc. Song song đó, các hoạt động tác chiến chống lại sự lấn chiếm “tràn ngập lãnh thổ” của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa của ta đã giành thắng lợi, lực lượng của ta được củng cố, bổ sung phát triển, đặc biệt lực lượng vũ trang ba thứ quân ở miền Nam. Đảng cũng tranh thủ thời cơ thuận lợi, tích cực tạo thế và lực mới thông qua sự ra đời của các quân đoàn chủ lực: Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 4. Sự ra đời của quân đoàn chủ lực “Quả đấm thép” trong tác chiến chiến dịch, đã đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt trong tổ chức và xây dựng của Quân đội nhân dân, góp phần tạo thế và lực, khi thời cơ đến chủ động tiến công chiến lược để giành thắng lợi cuối cùng.
Thời cơ cách mạng bắt đầu vào giữa năm 1974, vùng giải phóng trên chiến trường miền Nam được mở rộng, quân và dân ta đã giải phóng và giữ được hàng chục chi khu quận lỵ. Trên chiến trường Lào và Campuchia, đế quốc Mỹ và tay sai đang gặp khó khăn trầm trọng. Thêm vào đó, tháng 8-1974, Tổng thống Mỹ - Níchxơn từ chức đã tạo ra sự khủng hoảng trầm trọng trong nội bộ chính trị của nước Mỹ. Chính quyền và quân đội Việt Nam cộng hòa từng bước hoang mang, rệu rã. Điều đó phản ánh thế và lực của đế quốc Mỹ và tay sai của chúng đang suy yếu, lực lượng cách mạng của ta cần tận dụng thời cơ thuận lợi đó, kiên quyết mở chiến lược tiến công, giữ vững thế chủ động để phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Căn cứ vào tình thế thuận lợi trên, Hội nghị Bộ Chính trị (từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974) đã khẳng định: “Lúc này chúng ta đang có thời cơ” [4], các lực lượng vũ trang ở miền Nam đã tận dụng thời cơ, chủ động tiến công tiêu diệt quân chủ lực của địch, đập tan các cuộc hành quân lấn chiếm của địch và mở rộng vùng giải phóng. Với thắng lợi của Chiến dịch Phước Long (1-1975) đã tạo ra thế và lực cho lực lượng chủ lực cơ động của ta, thời cơ cách mạng ngày càng đến gần và khả năng giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi.
Với tinh thần “1 ngày bằng 20 năm” quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, Hội nghị Bộ Chính trị tiếp tục họp lần 2 (từ ngày 8-12-1974 đến ngày 8-1-1975) đã chỉ rõ: “Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ...” [5]. Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, “ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác”, nếu “chậm mươi, mười lăm năm nữa”, thì “tình hình sẽ phức tạp vô cùng” [6]. Do đó, Đảng đã hạ quyết tâm nắm lấy thời cơ, phải “động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tiến công và nổi dậy cuối cùng… phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975-1976” [7]. Nhờ quyết tâm chiến lược đúng đắn, táo bạo của Đảng mà chủ trương “giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976” chuyển thành “thời cơ đến thì giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Chủ trương đã đánh dấu tư duy chiến lược nhạy bén của Đảng trong chủ động nắm bắt thời cơ mới phù hợp với so sánh lực lượng trong nước và bối cảnh quốc tế, góp phần tạo ra thế và lực mới trong cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam. Chủ trương có ý nghĩa lịch sử dẫn đường cho đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 bắt đầu bằng Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4-3 đến 3-4-1975) với trận mở đầu vào thị xã Buôn Ma Thuột là đòn đánh hiểm, điểm trúng “huyệt” quân địch. Thắng lợi của ta ở Buôn Ma Thuột vào lúc 1 giờ 35 phút ngày 10-3-1975 đã làm đảo lộn thế trận chiến lược của địch ở Tây Nguyên, đồng thời cũng tạo thời cơ thuận lợi để lực lượng của ta phát triển thế tấn công xuống các tỉnh đồng bằng Trung Bộ cũng như tiến thẳng vào Đông Nam Bộ, kìm giữ lực lượng tổng dự bị chiến lược của địch ở Tây Nguyên, đẩy quân địch lâm vào nguy cơ tan vỡ hoàn toàn, mở đầu bước suy sụp không thể cứu vãn của chế độ Mỹ - ngụy.
Thắng lợi vang dội của chiến dịch Tây Nguyên đã phá vỡ hệ thống phòng thủ của địch, tạo ra thời cơ chiến lược mới để Đảng tận dụng và phát huy thế, lực đã có, kịp thời triển khai cấp tốc phương hướng, mục tiêu tiến công địch trên chiến trường. Hướng phát triển của cuộc tổng tiến công chiến lược tiếp theo được Đảng xác định là tiến công xuống đồng bằng ven biển, giải phóng Huế - Đà Nẵng. Với sức mạnh tấn công “hết sức táo bạo, bất ngờ” chiến dịch Huế - Đà Nẵng từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 3 năm 1975 đã “làm cho địch không kịp trở tay” [8]. Nhấn mạnh về thắng lợi ở Đà Nẵng, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Tình hình chuyển biến mau lẹ. Cuộc cách mạng miền Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt… Trên thực tế, có thể coi chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu từ đây” [9]. Trên đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam chuyển từ trước mùa mưa năm 1975 sang tháng tư năm 1975 “chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không thể chậm” [1]0. Nhằm động viên, cổ vũ quân và dân các chiến trường tề xốc tới lập chiến công dâng Bác, ngày 14-4-1975, chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được đổi tên là chiến dịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở thế trận đã cày xong từ năm hướng, lực lượng chủ lực của ta đẩy mạnh tác chiến trên các chiến trường đồng loạt tiến công vào sào huyệt của địch, chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định đã diễn ra vào ngày 26-4-1975 và kết thúc thắng lợi vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975.
Đại thắng Mùa Xuân 1975 là kết quả tất yếu và là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, Đảng luôn bám sát thực tiễn, nắm bắt kịp thời những thay đổi (cả bên trong và bên ngoài) tận dụng thế, lực sẵn có, linh hoạt điều chỉnh, bổ sung phát triển đường lối phù hợp với yêu cầu cách mạng trong nước và xu thế phát triển của thế giới. Qua đó tạo ra thế và lực mới mở cuộc quyết chiến chiến lược góp phần giành nhiều thắng lợi liên tiếp trên các chiến trường, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, 30 năm chiến tranh cách mạng, 117 năm chống đế quốc xâm lược, quét sạch quân xâm lược, giành lại nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ nghệ thuật nắm vững thời cơ, tận dụng thời cơ, tạo thế để giành thắng lợi cuối cùng trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã phát huy tối đa những thành tựu của gần 40 năm đổi mới và điều kiện thuận lợi của vị thế địa chính trị để tạo nên thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo, trở thành quốc gia phát triển cao, phồn vinh, hạnh phúc. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam” [11].
Hiện nay, trong bối cảnh cả nước đang bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với mục tiêu hướng đến là dâu giàu, nước mạnh và sánh vai với các cường quốc năm châu. Đây là thời cơ mới thúc đẩy tất cả các lĩnh vực của đời sống tăng tốc, đột phá để hoàn thành những mục tiêu chiến lược của đất nước. Thời cơ đó còn tạo ra cơ hội, điều kiện thuận lợi để người giảng viên Trường Chính trị không phấn đấu hoàn thành thiện bản thân; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đẩy mạnh chuyển đổi số… góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở vừa hồng, vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu chuyển mình của dân tộc. Để tận dụng cơ hội trong thời cơ mới, người giảng viên giảng dạy lý luận chính trị cần:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm bản thân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kỷ nguyên mới đặt ra những yêu cầu lịch sử đặc biệt, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần nhận thức sâu sắc, quyết tâm và quyết liệt hành động để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Do đó, đối với người giảng viên giảng dạy lý luận chính trị cần nhận thức sâu sắc về kỷ nguyên mới, tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục để người học hiểu rõ về những thành tựu vĩ đại đạt được sau gần 40 năm đổi mới đất nước đã tạo ra thế và lực cho sự phát triển bứt phá của Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. Thông qua đó, nâng cao lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, khơi dậy cho học viên khát vọng, ý chí vươn lên, chủ động học tập, lao động và cống hiến hết mình để đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.
Hai là, bản thân mỗi giảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức người thầy, cô trường Đảng nhằm hình thành chuẩn mực, hình mẫu người thầy giảng dạy lý luận chính trị. Giảng viên luôn nỗ lực, trau dồi đạo đức, giữ gìn phong cách chuẩn mực của người giảng viên trên giảng đường cũng như trong cuộc sống; thực hiện kỷ luật phát ngôn; gương mẫu, đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;... tạo sự thấm sâu, lan tỏa hiệu quả trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường.
Ba là, giảng viên trường Đảng phải luôn “học tập suốt đời”. Học tập suốt đời chính là chìa khóa của thế kỷ 21, là hướng đi tất yếu để bảo đảm sự phát triển bền vững trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Trong đó, Trường Đảng có vai trò rất quan trọng trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở các địa phương, quyết định đến việc hoàn thành tốt nhiệm vụ, mục tiêu mà kỷ nguyên mới đặt ra. Do đó, để đáp ứng yêu cầu mới, người giảng viên giảng dạy lý luận chính trị phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đẩy mạnh chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp trồng người. Bản thân mỗi giảng viên cần tự khắc phục những khó khăn ra sức tăng tốc, bứt phá trong học tập, nghiên cứu, tạo ra sản phẩm khoa học đóng góp tích cực vào sự nghiệp huấn luyện của Đảng.
Bốn là, gương mẫu đi đầu trong đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Bước vào kỷ nguyên mới có thời cơ và thách thức đan xen, các thế lực thù địch không những chống phá Đảng, Nhà nước, phủ nhận những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng… Do đó, đội ngũ giảng viên trường chính trị phải phát huy vai trò tích cực, chủ động của mình, tiên phong đi đầu trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, dùng lý luận sắc bén, sẵn sàng đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.
Qua 50 năm thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với đỉnh cao là Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên cả nước hoà bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Phát huy những giá trị lịch sử to lớn của thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng những thành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra thế và lực mới đưa Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Ghi chú
[1],[2],[9] Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb.Sự Thật, H.1985, tr.364, 366, 383
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2004, T.34, tr.232.
[4],[6],[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,, H.2004, T.35, tr.177, 186, 185
[5] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử chiến dịch Trị Thiên và Chiến dịch Đà Nẵng Xuân 1975, Nxb.Quân đội nhân dân, H.2006, tr.5.
[8],[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2004, T.36, tr.89, 96.
[11] Tổng Bí thư Tô Lâm, Phát biểu bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khóa XIII, ngày 23 tháng 9 năm 2024
(https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-XIII/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-be-mac-hoi-nghi-lan-thu-muoi-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-4181)