Phát triển kinh tế và phát triển văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, là một trong những mối quan hệ rất cơ bản phản ánh trình độ và chất lượng của sự phát triển bền vững đất nước. Nếu như phát triển kinh tế là để xây dựng nền tảng vật chất thì phát triển văn hóa là nhằm tạo dựng nền tảng tinh thần cho xã hội. Nhìn một cách tổng quát, phát triển kinh tế chính là tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển văn hóa và con người, tạo điều kiện để con người có thể tham gia vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá và thụ hưởng các giá trị văn hóa ngày càng nhiều. Phát triển kinh tế bền vững, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế bền vững với bảo đảm các vấn đề xã hội và môi trường, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của con người là mục tiêu hàng đầu. Nền kinh tế nước ta được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự điều tiết và quản lý thống nhất của Nhà nước, để vừa bảo đảm tự do cho kinh tế thị trường phát triển, vừa bảo đảm định hướng chính trị ưu việt của chế độ XHCN. Mặt khác, văn hóa phát triển sẽ góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động, tạo lập môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh, nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học công nghệ, nâng cao kỷ cương, kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp, góp phần làm động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế và văn hóa là nâng cao chất lượng cuộc sống, đem lại hạnh phúc thực sự cho con người. Đây chính là điểm tương đồng, nơi hội tụ định hướng phát triển của kinh tế và văn hóa.
Nhận thức sâu sắc và toàn diện về mối quan hệ này nên trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn coi trọng việc gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Điều này được thể hiện đầy đủ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Đặc biệt, trong phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh của đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”.
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên nhiều mặt của nền kinh tế, bao gồm: tăng trưởng GDP; hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế kinh tế, nâng cao thu nhập trên đầu người và chất lượng cuộc sống. Phát triển kinh tế hiện nay được nhấn mạnh là phát triển bền vững, có nghĩa là phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển con người.
Phát triển văn hóa là hoạt động có chủ đích của chủ thể văn hóa tác động làm nảy sinh những giá trị văn hóa mới (cả về quy mô và chất lượng) theo hướng đi lên; đạt chuẩn chân, thiện, mỹ ngày càng cao; thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, thúc đẩy toàn bộ các lĩnh vực hoạt động văn hóa; tạo ra các điều kiện và cơ hội cho con người tham gia vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá, đánh giá và thưởng thức các giá trị văn hóa; tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh làm động lực thúc đẩy quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ những hoạt động văn hóa đó, con người được phát triển nhân cách, hình thành phẩm chất, năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội. Trong thời đại ngày nay, văn hóa còn là cầu nối của các hoạt động kinh tế quốc tế, tạo nên sự liên kết và đồng thuận quốc tế; văn hóa góp phần quảng bá hình ảnh quốc gia, dân tộc, tạo dựng thương hiệu cho đất nước; văn hóa chính là “sức mạnh mềm”, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước” [1]; quan điểm của Người đã chỉ rõ kinh tế chính là cơ sở của văn hóa, vì vậy kinh tế phải đi trước một bước. Do đó, phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Đồng thời, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” [2].
Thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta luôn chú trọng giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, hướng tới sự phát triển bền vững của đất nước và đã đạt được những kết quả sau:
- Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã có tốc độ tăng trưởng khá, nhiều năm có tốc độ tăng trưởng trên 7%. Có thể khẳng định, nền kinh tế Việt Nam đã tăng lên về lượng và cần phải tiếp tục giữ để đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn. Đặc biệt, để Việt Nam đạt được mục tiêu đặt ra năm 2030 và 2045 về phát triển, thì hơn lúc nào hết phải bứt phá đi lên, mà trước tiên là tốc độ tăng trưởng kinh tế phải cao. Bên cạnh phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát triển văn hóa – xã hội, tiến bộ và công bằng xã hội cũng như quan tâm đến bảo vệ môi trường, bảo đảm môi trường sống của con người phải thật sự xanh, sạch, đẹp.
- Thứ hai, nhận thức về văn hóa và gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của các cấp, ngành và toàn dân được nâng lên. Phát triển văn hóa được chú trọng hơn về chủ trương, chính sách, nguồn lực. Phát triển văn hóa được gắn kết chặt chẽ trong quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, lĩnh vực, tạo môi trường và điều kiện để người dân được công bằng thụ hưởng các thành quả phát triển chung của đất nước. Môi trường văn hóa được cải thiện, khai thác tốt hơn nguồn lực của xã hội, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng các dân tộc, cộng đồng dân cư từng bước được khơi dậy. Các thiết chế văn hóa được xây dựng, bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau, đa dạng loại hình, sở hữu. Ý thức chính trị, năng lực sáng tạo, trách nhiệm công dân của phần đông văn nghệ sĩ được phát huy. Các giá trị văn hóa truyền thống được giữ gìn, phát huy, kết hợp tốt hơn với văn hóa đương đại. Hoạt động văn hóa từng bước thích ứng dần với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
- Thứ ba, các nội dung phát triển văn hóa, xã hội góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, được thể hiện cụ thể trong tất cả các hoạt động văn hóa, các mục tiêu, nhiệm vụ an sinh xã hội. Việc xây dựng văn hóa ở gia đình, xã, ấp, khu phố, công sở, trường học, đơn vị, doanh nghiệp, thực hiện nếp sống văn minh trong sinh hoạt cộng đồng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại được quan tâm hơn. Việc thể chế hóa chủ trương của Đảng về thiết chế văn hóa, thể hiện rõ sự gắn kết giữa phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng lĩnh vực, giữa các vùng miền được quan tâm thực hiện chất lượng, hiệu quả hơn; Nhà nước ban hành nhiều văn bản luật quan trọng tạo hành lang pháp lý cho phát triển văn hóa.
- Thứ tư, tiến bộ và công bằng xã hội được nâng lên rõ rệt nhờ tăng trưởng ổn định của nền kinh tế, thể hiện rõ ở các lĩnh vực hoạt động văn hóa. Chính sách văn hóa trong lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng, di sản được tiếp tục hoàn thiện. Các địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa.
- Thứ năm, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được cụ thể hóa trong xây dựng thể chế, phát triển ngành, lĩnh vực văn hóa. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa đã có những kết quả bước đầu, tích cực. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp; triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, hạn chế đặt ra trong giai đoạn hiện nay như: Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền chưa đầy đủ, không ít trường hợp chỉ coi trọng phát triển kinh tế, coi nhẹ mục tiêu văn hóa, xã hội; một số hoạt động kinh tế chưa thật sự gắn kết chặt chẽ với văn hóa; hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế và văn hóa cũng chưa thực sự quan tâm đến sự gắn kết này; trong việc phân bổ các nguồn lực, Nhà nước thường tập trung cho nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế, chưa đầu tư đúng mức cho văn hóa; trong xây dựng quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị, các nhà quản lý thường tập trung vào mục tiêu lợi ích kinh tế, chưa chú ý tới điều kiện sống, môi trường lao động và đời sống văn hóa tinh thần của người lao động; doanh nghiệp thường chạy theo lợi ích kinh tế, ít quan tâm đến các giá trị văn hóa và chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng xã hội…
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, thấm nhuần các quan điểm chỉ đạo của Đảng và tính tất yếu của mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước sẽ giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ chức, cá nhân tham gia vào trong quá trình lãnh đạo, quản lý nhà nước và phát triển kinh tế đều phải chú ý coi trọng vấn đề văn hóa, phát triển kinh tế phải hướng đến mục tiêu phát triển văn hóa, đồng thời biết khai thác các giá trị văn hóa để làm giàu cho phát triển kinh tế.
Tại tỉnh Bến Tre, trong thời gian qua, các cấp ủy đảng, chính quyền đã quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa. Đặc biệt, sau Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 29/01/2021 về “xây dựng con người Bến Tre phát triển toàn diện, gia đình hạnh phúc, tiến bộ” để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Đồng thời, Tỉnh ủy cũng đã tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Báo cáo tổng kết số 630-BC/TU ngày 01/6/2024 của Tỉnh ủy). Trong chiến lược phát triển, Bến Tre xác định phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội nhanh và bền vững là nhiệm vụ trung tâm, đặc biệt xác định văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đồng thời, Bến Tre cũng xác định văn hóa con người là một trong ba trụ cột song hành cùng chính trị và kinh tế. Do đó cần tập trung thực hiện, chú trọng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội,…
Với quan điểm con người là trung tâm của mọi sự phát triển; xây dựng con người Bến Tre phát triển về mọi mặt nhằm đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập, phát triển toàn diện con người Bến Tre phải gắn với 3 môi trường văn hóa là gia đình, nhà trường, xã hội. Từ đó, Bến Tre đề ra các mục tiêu và xác định phát triển hệ giá trị với 10 giá trị cốt lõi xây dựng con người Bến Tre: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, bản lĩnh, tự cường, tự trọng, trách nhiệm, hợp tác, sáng tạo. Không chỉ xây dựng con người phát triển toàn diện, Bến Tre còn đưa ra các nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa gia đình, trọng tâm là gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Tập trung xây dựng văn hóa gia đình theo từng nhóm đối tượng với những chuẩn mực của con người Bến Tre phát triển toàn diện. Tạo môi trường phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân. Bên cạnh đó, Bến Tre chú trọng xây dựng văn hóa chính trị trong hệ thống chính trị. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền đối với lĩnh vực văn hóa, giáo dục, gia đình. Xác định, văn hóa chính trị cao nhất là văn hóa phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Đặc biệt là xây dựng văn hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời để xây dựng văn hóa con người phát triển, Bến Tre cũng tăng cường các nguồn lực đầu tư cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, xây dựng các thiết chế văn hóa, tăng cường công tác tuyên truyền, cổ động cho nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người.
Trong 9 tháng đầu năm 2024, Bến Tre đã duy trì đà tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực, với tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt 5,18%, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn tiến triển tích cực và đúng hướng. Cụ thể, khu vực nông, lâm, thủy sản (khu vực I) chiếm 34,97%, khu vực công nghiệp và xây dựng (khu vực II) chiếm 20,09% và khu vực dịch vụ (khu vực III) đạt 41,68%. Tiến độ thu ngân sách của tỉnh đã đạt được con số khả quan, với hơn 85,54% dự toán của Trung ương và trên 84% dự toán địa phương được thực hiện, tăng gần 23% so với cùng kỳ năm trước. Các công trình giao thông quan trọng trong tỉnh không ngừng được đầu tư và đẩy nhanh tiến độ thi công, nhằm kết nối toàn bộ vùng miền và tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc giao thương và thu hút đầu tư. Nhiều chương trình đầu tư đã thu hút nhiều nhà đầu tư tiềm năng, mở ra cơ hội hợp tác đa dạng trong các lĩnh vực như nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến và dịch vụ du lịch. Cùng với việc đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng, tỉnh đã áp dụng những chính sách khuyến khích mạnh mẽ giúp thu hút nguồn lực, tạo động lực cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Lĩnh vực văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục và đào tạo cũng ghi nhận nhiều thành tựu tích cực. Tỉnh đã tập trung đột phá vào phát triển nguồn nhân lực với đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm; nâng cao chất lượng dịch vụ y tế; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, lịch sử, giá trị tốt đẹp của người Bến Tre. Bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo người có công, đối tượng yếu thế; thực hiện tốt hơn công tác giảm nghèo. Song song đó, tập trung xây dựng văn hoá trong kinh tế, trọng tâm là giáo dục ý thức và hành động thiết thực, hiệu quả sản xuất phải gắn với bảo vệ môi trường, xây dựng chữ tín trong quan hệ sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, quy mô kinh tế còn nhỏ, tốc độ, chất lượng tăng trưởng còn hạn chế. Hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu đồng bộ, nhất là giao thông đường bộ, đường thủy nội địa. Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản còn cao, chiếm 43,1%. Công tác đào tạo nghề và chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn chưa đạt yêu cầu đề ra. Tỉnh chưa thu hút được các dự án quy mô lớn tạo đột phá cho phát triển. Đời sống người dân còn khó khăn... Chính vì vậy, mục tiêu hướng tới là xây dựng một môi trường sống hiện đại, tiện nghi cho người dân và một nền kinh tế phát triển bền vững, Bến Tre trong thời gian tới với nhiều tiềm năng khác biệt, lợi thế so sánh và cơ hội nổi trội, nguồn lực phong phú là điều kiện, tiền đề để Bến Tre bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, tạo sự bứt phá vươn lên.
Tóm lại, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa không phải là mối quan hệ cơ học, tách biệt hoặc đối lập nhau mà quan hệ biện chứng. Định hướng giá trị cốt lõi của phát triển kinh tế và phát triển văn hóa là vì lợi ích của quốc gia dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân, vì sự phát triển nhân cách của mỗi con người. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa là điều kiện cho sự phát triển bền vững của đất nước, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Để đảm bảo giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, để văn hóa được đặt ngang hàng với kinh tế thì đòi hòi các nhà lãnh đạo, quản lý và toàn xã hội phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn, thấm nhuần các quan điểm chỉ đạo của Đảng và có phương pháp vận dụng một cách phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Do đó nghiên cứu và vận dụng chuyên đề “Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa” là rất cần thiết nhằm nâng cao nhận thức về lý luận, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn để vận dụng thực hiện có hiệu quả trong công tác./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 470
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 458 - 459
NH