Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử quan trọng nhất của nước ta và có giá trị cao về mặt lý luận. Đồng thời, thể hiện rõ ý chí hòa bình và quyết tâm sắc đá của nhân dân ta, quyết tâm bảo vệ nền độc lập vừa mới giành lại được. Để có được Tuyên ngôn độc lập, biết bao đồng bào đã hy sinh trong 80 năm chống Pháp và cũng chấm dứt giai đoạn mất nước, giai đoạn nhân dân ta sống đời nô lệ. Mở ra kỉ nguyên mới: Kỉ nguyên độc lập tự do. Tuyên ngôn độc lập với những lý luận chặt chẽ, sắc bén và những dẫn chứng hùng hồn có sức thuyết phục cao. Đó là kết quả của một quá trình trăn trở, suy ngẫm và từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập có những giá trị nhất định về mặt lý luận và có ý nghĩa nhất định trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay. Nổi bật là vấn đề về quyền con người và quyền dân tộc.
Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập Bác đã nêu thẳng những căn cứ pháp lý, đó là những câu tuyên bố được Bác rút ra từ hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và Pháp. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ là bất hủ: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Cách dẫn chứng như trên vừa thể hiện sự khéo léo vừa kiên quyết. Bởi vì, con người có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến đã bị tước đoạt và chỉ khi dưới chế độ ta ba quyền ấy được đảm bảo ngày một tốt hơn. Điều đó mang một ý nghĩa thời đại, là mục tiêu không thể xa rời của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, Bác đã khẳng định nước ta được độc lập mà dân không được tự do thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ mật thiết với nhau và cũng là nét độc đáo trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ những lập luận trên, Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và hai bản Tuyên ngôn bất hủ ấy có cùng vị trí ngang nhau trên trường quốc tế. Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ quyền của cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới. Đây được xem là cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện tâm huyết lớn của người dành cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới. Khẳng định tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình. Đồng thời, đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với dân tộc Việt Nam, nhất là khi độc lập dân tộc vừa mới giành lại được và đang bị các lực lượng thù địch bao vây tứ phía.
Không thể phủ nhận rằng, hiện nay Việt Nam đang phải đối diện với không ít những vấn đề về quyền con người như: Phân hóa giàu nghèo, tình trạng quan liêu, tham nhũng, mộ số nơi quyền làm chủ của nhân dân bị xâm phạm, người dân không thụ hưởng các hàng hóa dịch vụ giá cả tương xứng với chất lượng,…Tuy nhiên với việc nhận thức đúng đắn về quyền con người thì các quyền cơ bản về con người trên đất nước ta nhất định sẽ được đảm bảo ngày càng tốt hơn.
Tiếp theo là một lập luận đối lập đanh thép tố cáo và vạch trần bản chất cướp nước, giả nhân đạo, lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái để che đậy hành vi bất nhân, bất nghĩa từ chính sách ngu dân, rượu cồn, thuốc phiện, thuế khóa,…Người không chỉ tố cáo, vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân trước nhân dân thế giới mà còn giúp họ phòng, chống chủ nghĩa thực dân. Như vậy, quyền con người sẽ không thực hiện được khi còn chủ nghĩa thực dân.
Bác đã khái quát giai đoạn lịch sử đầy biến động của nước ta, đặt dấu chấm hết cho thể chế cũ mở ra thời đại mới - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ một câu“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định thắng lợi của cách mạng nước ta. Thắng lợi đó đã mở đầu cho phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa khác giành độc lập trên thế giới nhất là các nước châu Á và châu Phi. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không còn chỉ dành riêng cho dân tộc Việt Nam mà đó còn là sự cổ vũ, lời khẳng định thiêng liêng của tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc đang chịu sự cai trị của chủ nghĩa thực dân.
Để biểu dương truyền thống bất khuất của dân tộc, kích thích tinh thần tự hào dân tộc, ý chí chiến đấu để nhân dân ta quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp, Bác nêu “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Tinh thần ấy đã làm thức tỉnh mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Đó là giá trị có sức lan tỏa của ý chí chống ngoại xâm, chống áp bức, bóc lột của dân tộc Việt Nam.
Cuối cùng thay mặt nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố với thế giới, đồng thời, cũng khẳng định quyền dân tộc, quyền được hưởng tự do độc lập còn được tăng lên một bậc nữa“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập”. Tuyên ngôn đã khẳng định ý chí của người Việt Nam quyết bảo vệ nền độc lập dân tộc ấy bằng mọi giá “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Với Tuyên ngôn độc lập, lần đầu tiên Việt Nam hiện diện trên trường quốc tế với tư cách là một nước tự do, độc lập. Thế giới cũng thấy được tinh thần quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Hiện nay, quyền dân tộc cơ bản bao gồm: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và ngày nay Việt Nam trở thành một trong những dân tộc tiên phong cách mạng trong phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Ngày nay giá trị của Tuyên ngôn độc lập còn có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng đất nước. Sự thống nhất biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc là nền tảng soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên một tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập thực sự là một mốc son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam và trở thành một cuộc đối thoại lớn có ý nghĩa lịch sử trọng đại: Tuyên bố với nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới về việc chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và hàng nghìn năm phong kiến ở Việt Nam, mở ra giai đoạn mới của một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, tự chủ, đồng thời đấu tranh bác bỏ những âm mưu tái chiếm Việt Nam của các lực lượng thù địch đặc biệt là Pháp và Mỹ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận quốc tế. Tuyên ngôn độc lập báo hiệu một thời đại mới, thời đại giải phóng các dân tộc khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn thế giới; thời đại phá tan xiềng xích của chủ nghĩa thực dân; thời đại của các dân tộc bị áp bức, bóc lột giành lại quyền sống, quyền độc lập, tự do. Tuyên ngôn độc lập chứa đựng tất cả: Chân lý của nhân loại, tội ác của thực dân xâm lược và sự bạc nhược của chúng, nhân dân ta đã giành chính quyền, mong muốn các dân tộc khác công nhận độc lập chủ quyền và ý chí của toàn thể dân tộc ta. Tuyên ngôn độc lập thể hiện ý chí, trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống, khát vọng của dân tộc, lẽ phải, chân lý của nhân loại, của thời đại, mãi sống trong hành trình của dân tộc trên con đường xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng./.
Đoàn Thị Mao
Khoa Dân vận