Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là di sản soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, tiếp tục là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước trong công cuộc đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người của cách mạng, đã kết tinh trí tuệ của nhân loại, luôn thấm nhuần chủ nghĩa Mác và trở thành người mác-xít đầu tiên của Việt Nam. Di chúc của Người là cơ sở lý luận về công cuộc đổi mới và xây dựng xã hội - xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Cơ sở lý luận
Người thấu hiểu quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và con người, cùng với tài năng và đức độ của mình, trong di chúc Bác đã để lại cho thế hệ cách mạng đời sau những lời đầy tâm huyết khi đề cập đến sự lãnh đạo thắng lợi của Cộng sản Việt Nam: “Trước hết nói về Đảng”, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" [1] . Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về mai sau. Đây là cơ sở lý luận cho công cuộc đổi mới và định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công ở Việt nam.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất một cách thực chất và phải thể hiện cả trong tư tưởng và hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, một quyết sách thì không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của cách mạng, Nhân dân và tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho phép có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, phải ra sức xây dựng được hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; thường xuyên đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, hách dịch nhũng nhiễu, thậm chí vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, cán bộ phải biết lắng nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân để kịp thời giải quyết những tâm tư, nguyện vọng, oan ức của nhân dân, làm cho lòng dân được an tâm, tin tưởng; không ngừng đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng vai trò của Mặt trận, các tổ chức đoàn thể, đổi mới và hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối với công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trong dụng nhân tài, huy động mọi nguồn lực phục vụ cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Mặc khác, trong di chúc Bác Hồ nhắc nhở chúng ta: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ trung thành của nhân dân…” [2] . Đảng ta tiến hành xây dựng chính quyền, xây dựng đất nước thì những gì Bác dạy trong Di chúc vô cùng thiết thực. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vì lợi ích riêng tư, vì chủ quan, tự mãn đã nảy sinh tư tưởng công thần, địa vị, đòi hỏi nhiều hơn cống hiến; dẫn đến thoái hóa, biến chất, thậm chí có người vi phạm pháp luật, phải trả giá... Khi cái ác, cái xấu chưa bị kiên quyết đấu tranh, loại bỏ, trở nên phổ biến sẽ làm cho lòng tin của nhân dân về Đảng, về chế độ bị suy giảm và là vấn nạn cần được báo động. Đây là cơ sở để Đảng ta định hướng xây dựng một xã hội mới, xã hội, xã hội chủ nghĩa.
Đoàn kết không chỉ đem lại thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng của quốc gia dân tộc, mà còn góp phần vì sự nghiệp cách mạng thế giới. Trong bản Di chúc Người mong muốn: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [3] . Với tư cách là nhà hoạt động cách mạng đấu tranh cho quyền lợi của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, dân chủ trên thế giới trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ vì độc lập, tự do cho dân tộc mình, mà còn thể hiện sự tôn trọng truyền thống của các nước thực dân, đế quốc đi xâm lược. Đấy là tấm lòng cao cả của Người (chủ nghĩa nhân văn cao cả Hồ Chí Minh) - không gây hận thù dân tộc - một bài học cho nhiều nước trên con đường tranh đấu cho độc lập tự do và đoàn kết quốc tế.
Trong bản Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng” [4] . Để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, góp phần xây dựng Đảng thành một khối thống nhất, vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của Nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia tổ chức một cách tự giác, tự nguyện. Cho nên việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các nguyên tắc của Đảng là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng của Đảng, trong từng tổ chức đảng phải thường xuyên thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ, “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”, mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, lắng nghe chân thành; mọi quyết định quan trọng của tổ chức đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải chân thành, thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Vì theo Người: “Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình… mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ” [5] . Đây cũng là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản nói chung, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Lời căn dặn của Người trong Di chúc về đoàn kết quốc tế là định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, để Việt Nam luôn đóng góp xứng đáng vào nền hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới. Vì đoàn kết quốc tế theo tư tưởng của Người vẫn còn nguyên tính thời sự, tính khoa học và thực tiễn; là sự đúc kết, trải nghiệm từ chính cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Do đó, đây chính là cơ sở quan trọng cho tiến trình mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước, tạo tiền đề cho cộng cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong mở đầu Di chúc Bác viết: “…tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta” [6] . Vì Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cách mạng Việt Nam luôn luôn được sự đồng tình và ủng hộ của giai cấp công nhân và nhân dân cách mạng thế giới, nhất là của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Tình đoàn kết quốc tế vĩ đại ấy là một điều kiện rất quan trọng cho cách mạng Việt Nam thắng lợi” [7] . Đó là niềm tin tưởng, kỳ vọng vào sức mạnh của tình đoàn kết quốc tế mà Người đã để lại trong Di chúc cho chúng ta.
Hơn bao giờ hết, trong cộng cuộc xây dựng đất nước cần phải ghi nhớ lời căn dặn của Bác: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới" [8] . Vì vậy, trên báo Quyền lợi đỏ (Praha, Tiệp Khắc) ngày 9/9/1989, tác giả I Liu Sitlich có bài viết nhấn mạnh: Bác Hồ cùng với bản Di chúc của Người là thuộc về tất cả phong trào cộng sản, công nhân và cách mạng trên thế giới. Thân thế và sự nghiệp đã vượt ra ngoài phạm vi biên giới của Tổ quốc mình. Điều đó cho thấy Di chúc và bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là cơ sở lý luận, hiện thân của cách mạng Việt Nam mà còn là bậc thầy về tư tưởng cách mạng thế giới qua đánh giá và nhìn nhận của bạn bè quốc tế.
2. Vận dụng định hướng công cuộc đổi mới và xây dựng xã hội - xã hội chủ nghĩa của Đảng.
Di chúc của Người đã trở thành kim chỉ nam định hướng con đường cách mạng của Đảng và nhân dân ta; Là “Văn kiện tầm Cương lĩnh”, “Áng văn tuyệt bút”, “Quốc bảo” trong thời kỳ đổi mới xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội,… dù cách gọi như thế nào, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn được khẳng định là văn kiện lịch sử vô cùng quý giá ở tầm cương lĩnh của Đảng - một bảo vật quốc gia, kết tinh tình cảm và tâm huyết suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng vì dân, vì nước của Người.
Bác đã đặt nền móng lý luận về đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được Đảng ta vận dụng, phát triển ngày càng hoàn thiện về mô hình, mục tiêu, đặc trưng, phương hướng, đặc biệt là làm rõ mười mối quan hệ lớn mang tính quy luật (Đại hội XIII) cũng như những chặng đường của từng thời kỳ quá độ.
Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là đồng chí Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã không ngừng lãnh đạo đất nước tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta và khẳng định đây là sự lựa chọn tất yếu, phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của thời đại, tạo động lực phát triển toàn diện đất nước trong thời kỳ mới. Đồng chí viết: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” [9] . Chủ nghĩa xã hội được đồng chí cố Tổng Bí thư khái quát có các đặc trưng, đây cũng là các đặt trưng được Đảng ta xác định trong Đại hội XIII.
Sau gần 40 năm đổi mới, cùng với cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đại hội XIII của Đảng khẳng định, “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa” [10]. Với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua gần 40 năm đổi mới cho chúng ta thấy sự sáng tạo lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ năm 1986 đến nay, Đảng có nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam hiện nay: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [11] . Đảng ta vận dụng sáng tạo qua từng giai đoạn lịch sử đã phản ánh sự nhất quán về lập trường tư tưởng chính trị và sự khéo léo, linh hoạt của Đảng trong phát triển nhận thức phù hợp với tình hình thực tiễn trong nước và các xu thế toàn cầu.
Kế thừa và vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội XIII, Đảng ta xác định ngay trong chủ đề Đại hội là “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại” [12], thể hiện sự coi trọng của Đảng ta đối với vấn đề này trong tình hình mới.
Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chính là sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam hiện nay là tổng hòa nhiều yếu tố. Đó là sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam, được biểu hiện qua truyền thống văn hóa, lịch sử, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần yêu nước, hòa hiếu, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc cùng với vị trí địa - chiến lược quan trọng.
Sức mạnh thời đại ngày nay đến từ những xu thế chủ đạo của thế giới, đã được Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, Nghị quyết số 34-NQ/TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, “Về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII” [13]chỉ rõ. Đó là xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những bước nhảy vọt trong khoa học - công nghệ . Đó là quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng sâu sắc, là nhận thức và nhu cầu của các quốc gia về hợp tác giải quyết các vấn đề toàn cầu .
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân” [14] trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ðộng viên và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với yêu cầu mở rộng dân chủ và giữ vững kỷ cương phép nước trong đời sống xã hội. Về phương châm:“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt” để nhân dân làm chủ; khẳng định: vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước.
Giảng viên Trường Chính trị Bến Tre thường xuyên nghiên cứu, vận dụng một cách sâu sắc di chúc của Người trong công tác giảng dạy, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ tỉnh nhà tinh thần đoàn kết chặc chẽ, một lòng phục, một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Xây dựng bản lĩnh, năng lực chính trị người thầy, cô giáo, học viên đủ sức để đảm đương việc phát huy sức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung và sức mạnh đoàn kết nội bộ của cơ quan, đơn vị nói riêng, để từ đó ra sức xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Do đó, đối với giảng viên khi dạy các học phần trong Chương trình Trung cấp lý luận chính trị, cụ thể là học phần tư tưởng Hồ Chí Minh cần lưu ý:
Việc đưa Di chúc của Bác lồng vào trong bài giảng là rất cần thiết vì thực hiện tốt việc này sẽ tạo cho bài giảng thêm sinh động và mang đến cho người học có cái nhìn thực tế hơn tư tưởng của Bác. Chẳng hạn, chúng ta có thể vận dụng những điều Bác viết về Đảng, Bác đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng vào bài Tư tưởng Hồ chí Minh về Đảng Cộng sản. Vấn đề đại đoàn kết đưa vào chương đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; vấn đề đạo đức cách mạng gắn với Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và đạo đức…
Giúp cho học viên có sự nhận thức đúng đắn về Tư tưởng Hồ Chí Minh trong Di chúc, nó vừa được thể hiện những vấn đề rất cụ thể, vừa là sự tổng hợp trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng của Người.
Vận dụng nội dung của Di chúc trong giảng dạy, giảng viên nên giới thiệu cho học viên sưu tầm các tài liệu liên quan để phục vụ cho nghiên cứu, thông qua đó giúp họ nhận thức được những việc chúng ta đã làm được và chưa làm được trong 40 năm thực hiện Di chúc của Người.
Đây cũng chính là cơ hội tốt giúp cho học viên tìm hiểu sâu hơn Di chúc của Bác cũng như liên hệ với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động.
Từ đó, tạo được sự kết hợp giữa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, với việc nghiên cứu, biên soạn nội dung Di chúc và đưa Di chúc vào trong chương trình giảng dạy, sẽ giúp cho giảng viên và học viên ngày càng nhận thức được sâu sắc hơn những giá trị của Di chúc - những lời di huấn thiêng liêng mà Người để lại cho toàn dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, sau hơn nữa thế kỷ thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tư duy, tầm nhìn chiến lược, tư tưởng thiên tài của Người từ cách đây trên nửa thế kỷ đã, đang và sẽ vẫn là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Vì vậy, trong Báo cáo Chính trị của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đặc biệt là bản Di chúc thiêng liêng, tài sản tinh thần có giá trị to lớn và quý báu Bác đã để lại cho chúng ta trong cộng cuộc đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Di chúc không chỉ là cở sở lý luận của cách mạng Việt Nam mà còn là cơ sở lý luận của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các dân tộc độc lập có chủ quyền trên thế giới trong thời đại ngày nay.
[1] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh Toàn tập, t12, tr 509
[2] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh Toàn tập, t12, tr 512.
[3] Tình thương của Bác, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.100
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.611.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập. Sđd, t.10, tr.387
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb. CTQG, H.2011
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14, tr.46
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.624
[9] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 24
[10] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 103 [11] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 111-112.
[12] Trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), công nghệ số..
[13] Biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống và phát triển bền vững...
[14] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 50