Đại thắng mùa Xuân 1975 - Sự thắng lợi của ý chí chiến đấu, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã tổng kết ý nghĩa và tầm vóc của chiến thắng vĩ đại trong mùa Xuân năm 1975, khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc”[1].

Đã 42 năm trôi qua kể từ ngày kết thúc cuộc “đụng đầu lịch sử” giữa ta và đế quốc Mỹ nhưng nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu, nhà phân tích quân sự trên thế giới vẫn khó lý giải cho chiến thắng của dân tộc Việt Nam - một nước nhỏ mà có thể thắng một cường quốc lớn hơn mình gấp nhiều lần về tiềm lực về kinh tế lẫn sức mạnh về quân sự: So sánh tương quan lực lượng, dân số nước ta lúc đó chỉ xấp xỉ 1/6 của nước Mỹ; đặc biệt nếu so sánh về lực lượng quân sự, nhất là về trình độ khoa học - kỹ thuật thì chênh lệch quá lớn. Cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã qua 5 đời tổng thống, kéo dài 222 tháng và 4 lần thay đổi “chiến lược chiến tranh”, song kết cuộc vẫn là thảm bại nặng nề nhất trong lịch sử nước Mỹ. Nhân dân ta dù phải trải qua cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ; phải hy sinh nhiều người, nhiều của nhưng suy cho cùng, chiến thắng ấy được làm nên bởi sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với truyền thống yêu nước, kiên cường, đoàn kết một lòng của nhân dân ta. Thắng lợi ấy đã chứng minh cho sự chiến thắng trọn vẹn của ý chí chiến đấu, bản lĩnh và trí tuệ của con người Việt Nam. Ý chí chiến đấu, bản lĩnh và trí tuệ chính là những yếu tố quan trọng nhất góp phần làm nên chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Ý chí chiến đấu, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam là một quá trình nắm tình hình địch qua việc phân tích, so sánh tương quan lực lượng giữa ta với địch cùng với sự chủ động, sáng tạo trong việc vận dụng quy luật của chiến tranh. Sự kết tinh của ý chí chiến đấu, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam là khả năng lãnh đạo độc lập, tự chủ của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là sự vận dụng đúng đắn sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào những điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vừa có tính nguyên tắc cao, vừa có tính mềm dẻo. Quá trình ấy được thể hiện trong đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng; đó chính là biểu hiện tập trung nhất về ý chí chiến đấu vì độc lập, thống nhất Tổ quốc, đồng thời đó cũng là bản lĩnh và trí tuệ của quân và dân ta.

Thứ nhất, ý chí, bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta thể hiện sâu sắc trong việc xác định nhiệm vụ chiến lược cho cuộc cách mạng: Đồng thời giải quyết hai nhiệm vụ chiến lược nhằm một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc và thống nhất Tổ quốc.

Về điều này, Bác Hồ đã khẳng định với ý chí quyết tâm sắt đá, không gì có thể lay chuyển nổi quân và dân ta, đó là “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập, tự do”, vì “miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Điều sâu sắc ấy không chỉ thể hiện rõ ở tầm nhìn chiến lược, niềm tin, ý chí quyết tâm sắt đá của quân và dân ta đối với cuộc đấu tranh lâu dài để thống nhất Tổ quốc mà còn khẳng định rõ mối quan hệ biện chứng giữa đường lối, nhiệm vụ cách mạng của hai miền Nam - Bắc. Thực tế chỉ ra rằng, có kiên quyết chiến đấu giải phóng miền Nam mới bảo vệ được miền Bắc; và có bảo vệ vững chắc miền Bắc mới có điều kiện về mọi mặt để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Với vai trò là “hậu phương lớn” cho chiến trường miền Nam, khắp các địa phương của miền Bắc đã dấy lên những phong trào thi đua “Vì miền Nam ruột thịt” như phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, nông dân “Tay cày tay súng”, công nhân “Tay búa, tay súng”, học sinh “làm nghìn việc tốt”… Thực hiện mục tiêu duy nhất là “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Thứ hai, ý chí, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam được thể hiện trong việc giữ vững tính nguyên tắc, linh hoạt trong việc xác định phương pháp đấu tranh và xác định lực lượng cách mạng. Chúng ta đã khôn khéo trong việc sử dụng bạo lực cách mạng; chọn điểm xuất phát là tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn phát triển thành chiến tranh cách mạng; tạo sức mạnh tổng hợp trên cơ sở kết hợp chặt chẽ các lực lượng (lực lượng chính trị quần chúng với lực lượng vũ trang); kết hợp chặt chẽ ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; đánh địch bằng ba mũi giáp công: Quân sự, chính trị và binh vận; đan cài, kết hợp: Kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; kết hợp đánh lớn với đánh vừa và nhỏ; thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ, nắm vững phương châm đánh địch lâu dài.

Thứ ba, ý chí, bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam thể hiện ở tầm nhìn xa trông rộng của Đảng, Bác Hồ, quân và dân ta với ý thức sâu sắc “giúp bạn là tự giúp mình”; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế: Xây dựng củng cố liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; không cho phép Mỹ dùng nước này để uy hiếp hoặc xâm lược nước kia. Nhờ đó chúng ta đã tạo nên thế lực vững chắc, tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa nhân dân 3 nước Đông Dương cùng nhau chống Mỹ xâm lược.

Ý chí chiến đấu, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam còn là một quá trình sáng tạo không ngừng, chớp lấy thời cơ, biến những điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước thành thế, thời và lực của ta mạnh hơn kẻ thù để chiến thắng. Ý chí đó là khả năng huy động đến mức cao nhất cả về sức lực, trí tuệ, tình cảm, ý chí của một dân tộc yêu chuộng hoà bình, sẵn sàng hy sinh để giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc trước một kẻ thù có sức mạnh quân sự lớn hơn gấp nhiều lần.

Trong 21 năm chống Mỹ cứu nước, cũng như trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà vấn đề đánh giá, so sánh lực lượng địch - ta và việc nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược của Đảng lại có những bước phát triển sáng tạo, sắc bén kịp thời như trong mùa Xuân 1975 lịch sử: Đánh giá đúng lực lượng và khả năng của địch; nhận định đúng tình thế và thời cơ lớn của cuộc chiến tranh cách mạng; nắm bắt đúng động thái trên chiến trường; phán đoán đúng chiều hướng phát triển của cuộc chiến là cơ sở thực tiễn, đồng thời là cơ sở khoa học tạo nên ý chí chiến đấu của quân và dân ta.

Việc triệt để tận dụng thời cơ, tạo thời cơ có lợi cho ta còn thể hiện rõ ngay sau khi ký Hiệp định Pari. Đảng và nhân dân ta vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo trong đấu tranh để đòi Mỹ phải thực hiện Hiệp định Pari, đồng thời kêu gọi nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa bảo bệ Tổ quốc của nhân dân ta, từng bước phát triển phong trào cách mạng miền Nam. Đảng ta khẳng định, con đường của cách mạng miền Nam vẫn còn là con đường bao lực, cần khẩn trương nắm bắt thời cơ, kiên định giữ vững đường lối chiến lược tiến công để thực hiện thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; chớp thời cơ khi đến, thần tốc, táo bạo, quyết thắng. Về chiến lược, Đảng ta hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976. Về kế hoạch chiến lược, ta xác định mục tiêu trong năm 1975 là làm cho quân đội ta lớn mạnh vượt bậc. Nếu thời cơ đến sẽ mở nhiều cuộc tiến công nổi dậy, làm cho địch suy yếu nhanh chóng, tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong năm 1976; đánh lớn, đánh nhanh, đánh Sài Gòn là chỗ hiểm yếu nhất, giành thắng lợi cuối cùng.

Tuy nhiên, dựa vào tình hình thực tế, Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25 tháng 3 năm 1975 đã nêu rõ: “Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành quyết tâm giải phóng miền Nam… Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa”. Khi thời cơ chiến lược để tiến hành “tổng công kích, tổng khởi nghĩa” vào sào huyệt của quân Sài Gòn đã chín muồi, đã kịp thời hạ quyết tâm “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, thực hiện “tổng công kích, tổng khởi nghĩa” trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 - 1975, “không thể chậm trễ”.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 diễn ra trong 55 ngày đêm với tốc độ “một ngày bằng hai mươi năm”, quân và dân ta đã toàn thắng ở ba chiến dịch then chốt, đó là: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đây là sự phát triển đến đỉnh cao của tư duy chiến lược, thể hiện cao nhất cả về ý chí, bản lĩnh và trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu bằng trận Buôn Ma Thuột, đã tiêu diệt một tập đoàn phòng ngự quan trọng của địch, là khởi điểm dẫn đến sự tan rã và sụp đổ về chiến lược của chúng, mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đây là đòn chiến lược mang đậm nét bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, với chiến thuật nghi binh, tạo yếu tố bất ngờ, nên lực lượng của ta tuy không lớn lắm nhưng sức mạnh được nhân lên gấp bội và đạt được hiệu quả lớn nhất. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã quét sạch quân địch ở các tỉnh ven biển miền Trung. Thắng lợi của chiến dịch này cùng với chiến dịch Tây Nguyên làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược, trực tiếp tạo thế và thời cơ cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử chắc thắng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Trong trận quyết chiến cuối cùng này, ta đã tập trung sức mạnh của cả nước đánh vào sào huyệt của địch, giải phóng Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh còn lại của Nam bộ. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan, chế độ thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng qua năm đời tổng thống hoàn toàn sụp đổ. Nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện thống nhất nước nhà, non sông thu về một mối, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong điều kiện phải đương đầu với kẻ thù xâm lược có quân đội rất đông, được trang bị vũ khí rất hiện đại, nếu chỉ đánh địch bằng quân sự thì khó có thể thắng chúng. Như vậy, nhờ có ý chí chiến đấu, bản lĩnh kiên cường và một trí tuệ tuyệt vời mà quân và dân ta đã kiên trì, bền bỉ tổ chức, xây dựng lực lượng, nắm và tạo thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn. Những yếu tố ấy được thể hiện trong thực tiễn vô cùng khó khăn, gian khổ và ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với quyết tâm chiến lược đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc; toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta nhất quán thực hành chiến lược tiến công, kiên trì, bền bỉ, đánh thắng từng bước đến đánh thắng hoàn toàn. Cụ thể đó là quá trình từng bước chuẩn bị về mọi mặt, xây dựng lực lượng; tạo thế và lực ta mạnh hơn địch; giành thời cơ để chủ động kết thúc chiến tranh.

Tóm lại, cuộc chiến tranh cách mạng của quân và dân ta không chỉ là cuộc đọ sức giữa hai quân đội và không phải chỉ đánh địch bằng quân sự mà bằng cả quân sự và chính trị, cả binh vận và ngoại giao; không chỉ đánh địch bằng chiến lược quân sự mà bằng chiến lược tổng hợp của cách mạng và chiến tranh cách mạng. Bởi vậy, ta càng đánh càng mạnh, không chỉ lớn mạnh về lực lượng mà còn tạo ra sức mạnh áp đảo trên chiến trường, ở những hướng chiến lược quan trọng nhất, ở những thời điểm quyết định nhất để thắng địch. Rõ ràng, ta thắng địch vì ta mạnh hơn địch, sức mạnh đó là sức mạnh của toàn dân đánh giặc với một ý chí kiên cường, bản lĩnh và trí tuệ tuyệt vời của cả dân tộc Việt Nam.

Đại thắng mùa xuân, thống nhất Tổ quốc cách đây 42 năm đã khẳng định nền hòa bình độc lập, nhân dân được hưởng tự do, hạnh phúc. Thế và lực của Việt Nam đang ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước không những là thắng lợi của sự kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại mà còn là sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, cả về tư tưởng, tinh thần và vật chất, kỹ thuật. Thắng lợi đó còn có cả tài năng, trí tuệ lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy của các tướng lĩnh và tính năng động, sáng tạo vĩ đại của quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang. Tất cả những nhân tố thắng lợi của cuộc kháng chiến đều được phát huy, trong đó nhân tố cơ bản nhất, quyết định nhất là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, đã kế thừa và phát huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu, bản lĩnh kiên cường và trí tuệ sáng suốt của nhân dân ta trong suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Thắng lợi vĩ đại đó đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao trong chỉ đạo chiến lược của Đảng ta, chính là biểu hiện tập trung nhất sức mạnh của toàn bộ cuộc kháng chiến, là thành công tiêu biểu của nghệ thuật thắng Mỹ, của ý chí chiến đấu, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam.

Lịch sử càng lùi xa, chúng ta lại càng nhận thức sâu sắc hơn tầm vóc vĩ đại, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam; rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử của dân tộc ta như một trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.

Những bài học kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng chống Mỹ cứu nước không những có giá trị tạo nên chiến thắng trong lịch sử mà còn có ý nghĩa to lớn và lâu dài đối với sự lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong giai đoạn hiện nay. Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong hơn 30 năm qua là sự kế tục và phát huy ý chí, bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam. Tinh thần chiến thắng 30/4/1975 lịch sử cũng là tinh thần và ý chí của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tiến lên giành những thành tựu to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới; thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Kỷ niệm 42 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975- 30/4/2017) là dịp để nhân dân cả nước nói chung, thế hệ trẻ nói riêng ôn lại và viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc. Từ đó, thấy được bản lĩnh kiên cường, trí tuệ sáng suốt của cha ông ta dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí quyết chiến, quyết thắng, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 vào thực hiện công cuộc đổi mới; tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời là dịp để tôn vinh và thể hiện lòng biết ơn sâu sắc tới các thế hệ người Việt Nam đi trước đã hy sinh xương máu và có nhiều đóng góp to lớn vì độc lập, hòa bình, thống nhất đất nước./.

__________________________________________

Chú thích
[1] ĐCSVN: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, H.1975, tr.5-6.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.131.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.12, tr.407.
[4] Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, tập 10.

Nguyễn Ngọc Diễm
Tập sự giảng viên Khoa Xây dựng Đảng

CHUYÊN ĐỀ

hcm

Thư viện ảnh