Kỷ niệm 114 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3/1910-08/3/2024), 1983 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3 và 77 năm Ngày thành lập Trường Đảng tỉnh Bến Tre (Trường Chính trị Bến Tre) (07/3/1947-07/3/2024)!

Thứ tư, 17 Tháng 4, 2024 - 04:41

Cách mạng Tháng Tám thành công - bước ngoặt lịch sử cho nền giáo dục Việt Nam

ThS. Nguyễn Thị Thùy Giao
Giảng viên Khoa Xây dựng Đảng
 

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đã tạo bước ngoặt lịch sử cho nền giáo dục Việt Nam phát triển và không ngừng đổi mới nhằm tạo nguồn “của cải nội sinh” góp phần xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

Giáo dục được coi là yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững, là cọi nguồn nội sinh của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhờ giáo dục và thông qua giáo dục, con người ngày càng được phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách. Chính vì vậy, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo của đất nước. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”1 và “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu”2. Từ đó, Người nhắc đến phương châm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”3.

Tuy nhiên, nền giáo dục Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới chính sách cai trị tàn bạo và chính sách ngu dân thâm độc của thực dân Pháp đã khiến đại đa số Nhân dân Việt Nam sống trong trình trạng mù chữ, không hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là các quyền tự do, dân chủ mà con người được hưởng. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án chính sách ngu dân của thực dân Pháp: “Làm cho dân ngu để dễ trị, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”4 bởi theo thực dân Pháp thì việc “… truyền học vấn … hoặc cho phép … có học vấn, tức là một mặt cung cấp … những súng bắn nhanh để chống chúng…”5. Thực dân Pháp tìm mọi cách bóp nghẹt các quyền tự do ngôn luận, làm cho người dân “phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì … không có quyền tự do học tập”6, “Báo tiếng Việt không được xuất bản”7, chỉ có những sách báo tuyên truyền cho văn hóa Âu Tây, chính sách hợp tác và chủ trương Pháp - Việt đề huề cùng với “những bài phỉnh nịnh các quan trên có thế lực ở thuộc địa”8 mới được phép lưu hành.

Thực dân Pháp ngày càng can thiệp sâu hơn vào tình hình xã hội và hệ thống làng xã thông qua hàng loạt nghị định về cải lương hương chính ở Nam Kỳ, Bắc Kỳ nhằm viên chức hóa và tân học hóa tầng lớp kỳ hào, chức dịch, hủy bỏ Hán học vì Hán học có thể đưa vào An Nam những tư tưởng tiến bộ phương Tây thông qua Trung Quốc và Nhật Bản. Đến năm 1919, bãi bỏ các kỳ thi Nho học.

Bên cạnh đó, thực dân Pháp dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc người dân trong vòng tăm tối. Đến năm 1921, “có một nghìn năm trăm ty rượu và thuốc phiện cho một nghìn làng trong khi chỉ có mười trường học”9. “Mỗi năm chính quyền Pháp ở thuộc địa đã bán cho dân An Nam gồm 20 triệu người, trên 400 triệu đôla thuốc phiện. … cứ 1.000 ty bán rượu và thuốc phiện thì không có được lấy 10 trường học”10. Trong bài viết “Hãy yêu mến nước Pháp và người bảo hộ của anh” của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết trên báo Le Libertaire, ngày 7 đến ngày 14-10-1921 đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp hàng năm thu về từ rượu cồn và thuốc phiện “được trên 21.000.000 đồng bạc Đông Dương, tức là hơn 139.000.000 phrăng bằng cách bán các chất độc này”, tuy nhiên thực dân Pháp chỉ chi cho giáo dục trong một năm là “172.000 đồng bạc Đông Dương”11. Chế độ cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam trở thành “chế độ độc tài chuyên chế nhất, nó vô cùng khả ố và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế của nhà nước quân chủ châu Á đời xưa”12 và nó đang tìm cách “duy trì mãi mãi dân bản xứ trong trình trạng hèn yếu cả về thể lực lẫn trí tuệ để chặn đứng mọi mong muốn được sống tự do và độc lập”13.

Trước thủ đoạn thực thi chính sách ngu dân để thống trị của thực dân Pháp, “đến năm 1913, cả nước Việt Nam mới chỉ có 10 vạn học sinh trong tổng số dân cư 20 triệu người. Từ năm 1923-1930, số lượng học sinh tăng từ 187.000 người lên 434.335 người bao gồm học sinh vỡ lòng đến trung học tại trường công và tư; tổng số sinh viên cao đẳng là 436 người. Năm 1930, toàn bộ các trường có 12.000 giáo viên. Năm học 1931-1932, Đông Dương có 311 sinh viên”14. Tỷ lệ trẻ em đi học chiếm tỷ lệ 70-80% số người trong độ tuổi đi học 15.

Trong một bản báo cáo về tình hình Đông Dương, tướng Penơcanh viết: Trong 50 năm chiếm đóng ở Nam Kỳ và 25 năm chiếm đóng ở Bắc Kỳ, những trường học Pháp không đào tạo lấy được một người An Nam thật sự có học thức. Chúng ta chỉ cần dạy tiếng Pháp cho người An Nam, dạy cho họ biết đọc, biết tính toán chút ít thôi; biết hơn nữa chỉ là thừa vô ích. Nhưng ngay cả nền giáo dục sơ đẳng ấy cũng chỉ được phổ cập một cách quá bủn xỉn và nhỏ giọt. Trường học rõ ràng là còn thiếu nhiều, giáo viên thì chưa đủ tư cách để giảng dạy. Cao Miên có 2.000.000 dân mà chỉ có 60 trường học. Ở Trung Kỳ chỉ có 118 trường cho 6.000.000 dân. Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tuỳ phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình. Nó làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc16. Bên cạnh đó, Pháp còn đẩy mạnh tuyên truyền ca ngợi chính sách “khai hóa” của nhà nước “bảo hộ”, du nhập văn hóa đồi trụy, khuyến khích những tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút... Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét: “Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho công cuộc ngu dân của chính phủ. Máy chém và nhà tù làm nốt phần còn lại”17.

Sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam có hơn 90% dân số mù chữ, đây là thách thức lớn đối với chính quyền cách mạng trong những ngày đầu độc lập. Vì vậy, nhằm đào tạo những con người mới đáp ứng yêu cầu trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong đó có giáo dục: “phải giáo dục lại nhân dân. .. mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”18. Người chỉ rõ: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”19.

Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ba Sắc lệnh liên quan đến vấn đề xây dựng nền giáo dục mới như: Sắc lệnh 17/SL, thành lập Nha bình dân học vụ; Sắc lệnh số 19/SL, quy định hạn trong 6 tháng làng nào, thị trấn nào cũng có lớp học, ít nhất 30 người theo học; Sắc lệnh số 20/SL ban bố việc học chữ Quốc ngữ.

Hưởng ứng Lời kêu gọi Chống nạn thất học của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”20, phong trào Bình dân học vụ phát triển sôi nổi, những đoàn “chiến sĩ diệt giặc dốt” được huấn luyện cấp tốc và trở về địa phương chỉ đạo phong trào thúc đẩy giáo dục phát triển. Tiếng Việt được sử dụng trong các văn bản chính thức của Nhà nước và trong việc giảng dạy, học tập ở các trường lớp. Đến ngày 8-10-1946 ngành sư phạm Việt Nam được thành lập. Ngày 9-7-1946, thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục,… Với những kết quả đạt được trong lĩnh vực giáo dục không chỉ góp phần xứng đáng vào công cuộc chấn hưng đất nước, chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng mà còn mở bước ngoặt cho sự phát triển giáo dục Việt Nam về sau.

Theo Người “chế độ khác thì giáo dục cũng phải khác… Thời trước giáo dục là gõ đầu trẻ để kiếm cơm ăn. Có cơm chùa thì đánh chuông, hết cơm chùa thì không đánh chuông. Bây giờ nhiệm vụ giáo dục khác trước…: Bồi dưỡng thế hệ công dân, cán bộ sau này. Làm tốt thì thế hệ sau này có ảnh hưởng tốt. Làm không tốt sẽ có ảnh hưởng không tốt đến thế hệ sau. Mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới”21. Người quan tâm đến việc bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài, với tinh thần “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, Người chỉ rõ rằng việc “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Với mục tiêu của chiến lược “trồng người” là “dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”, theo Người, phải xây dựng một nền giáo dục toàn diện để đào tạo những con người có đức, có tài. Nền giáo dục đó phải kết hợp chặt chẽ giữa học và hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, gắn liền giáo dục của nhà trường với gia đình và xã hội, học suốt đời, kết hợp tự học với học trong nhà trường, học trong sách vở và học trong cuộc sống22.  

Tháng 8-1960, trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Người chỉ rõ: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”23. Đây là những nội dung giáo dục hết sức căn bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển của con người Việt Nam phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong nhiệm kỳ Đại hội III của Đảng (1960) Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 142-NQ/TW ngày 26-6-1966 về đào tạo bồi dưỡng cán bộ khoa học kỹ thuật, Chỉ thị số 169-CT/TW ngày 14-2-1969 về công tác giáo dục trong 3 năm 1968 - 1970.

Đại hội IV, Đại hội V của Đảng bắt đầu thực hiện cải cách giáo dục sâu rộng trong cả nước theo hướng kết hợp nhà trường với xã hội (Đại hội IV) đến kết hợp chặt chẽ nhà trường, gia đình với xã hội để thực hiện thắng lợi cải cách giáo dục (Đại hội V).

Đại hội VI của Đảng: “Sự nghiệp văn hóa, giáo dục phải tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng” như giáo dục mầm non “tiếp tục thực hiện cải cách giáo dục với nội dung thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế về dạy và học, từ đó củng cố chất lượng giảng dạy và học tập”. Đối với giáo dục chuyên nghiệp “cải tiến việc tuyển sinh theo hướng gắn chặt đào tạo với phân bố, sử dụng”24

Đại hội VII của Đảng xác định: Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới” và “đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển”25. Vì vậy, Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khoá VII ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo.

Đại hội VIII của Đảng (1996) nêu mười lĩnh vực chủ yếu phát triển đất nước thì lĩnh vực thứ tư là: “Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo”26. “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”27. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII ra Nghị quyết số 02-NQ/HNTW ngày 24-12-1996 về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000.

Tinh thần coi trọng vai trò “quốc sách hàng đầu” của giáo dục tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại các Đại hội IX (4-2001), Đại hội X (4-2006), Đại hội XI (1-2011) và Đại hội XII (1-2016), như: Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 26-7-2002 nhấn mạnh: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010; Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ra Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Đại hội XII của Đảng: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực”28. “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài…”29. Đại hội XIII của Đảng: “hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng”30.

Qua 35 năm đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có bước phát triển, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu học tập của nhân dân, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Quy mô và mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện và có bước hiện đại hóa. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng Trong đó công lao của Giáo sư - Tiến sĩ (GS.TS) Nguyễn Văn Huyên và GS Trần Văn Giàu đã đóng góp công sức và trí tuệ rất lớn đối với giáo dục Việt Nam trong đào tạo những thế hệ các nhà sử học mácxít đầu tiên cho đất nước, có những người đã trở thành những tên tuổi lớn của nền sử học Việt Nam,… Những thành tựu về giáo dục đã góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo nên sức bật mạnh mẽ trong nền giáo dục Việt Nam ghi tiếp nhiều chiến công to lớn và những thành tựu quan trọng góp phần tạo nguồn lực giữ vững nền độc lập dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, giáo dục và đào tạo cũng cần phải đổi mới mạnh mẽ, căn bản, toàn diện để phù hợp với sự phát triển chung của đất nước cũng như của thế giới nhằm góp xây dựng nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp, phồn vinh./.

Ghi chú

1,18 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG-ST, H.2011, t.4, tr.7,7.

2, 21 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự Thật, H.2011, t.10, tr.345, 344.

3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG-ST, Hà Nội.2011, t.11, tr.528.

4,7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG-ST, Hà Nội.2011, t.2, tr.109, 106,.

5,6,8,9,10,11,16,17,19,20, 22 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG-ST, H.2011, t.1, tr.11, 35, 19, 38, 230, 68, 424, 28, XXVI, XXV, XXVI .

12 Phan Văn Trương, bài đăng trên tờ La Cloche Fêlée, số 36, ngày 21-1-1996.

13 Phan Văn Trường: Une histoire des conspirateurs annamites à Paris ou la vérité sur I'Indochine (Một thiên lịch sử về những người An Nam mưu loạn ở Pari hay sự thật về Đông Dương), Sài Gòn, 1928, tr.62.

14 Theo Trịnh Văn Thảo: L'école Francaise (Trường học ở Đông Dương thuộc Pháp), Karthata, Paris, 1995, p.137.

15 Nguyễn Văn Khánh: Việt Nam 1919-1930: Thời kỳ tìm tòi và định hướng, Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, H.2007, tr.57

23 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG-ST, H.2011, t.12, tr.647

24 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, H.1986, tr.191-192

25 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.121.

26, 27 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Sự thật, H.1996, tr.104,107

28,29 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.113, 114.

30 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. QGST, H.2021, tr.128.

Tin khác