Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Ngày Đăng :

ThS. Trần Thị Quỳnh Nghi
Giảng viên khoa NN&PL

Với mục đích tiếp tục nâng cao nhận thức của đội ngũ đảng viên, giảng viên, viên chức và người lao động về những nội dung cơ bản, giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Đảng ủy Trường Chính trị tổ chức quán triệt học tập và thực hiện chuyên đề năm 2020 “Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Qua đó, giúp đảng viên, giảng viên, viên chức và người lao động của Trường nắm vững, hiểu rõ những nội dung cơ bản của chuyên đề, thường xuyên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của cá nhân và của Trường.

Tại buổi triển khai, học tập chuyên đề, toàn thể đảng viên, giảng viên, viên chức, người lao động của Trường đã được nghe đồng chí Cao Văn Dũng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Hiệu trưởng Trường Chính trị quán triệt nội dung chuyên đề, với 2 phần.  Phần 1, giới thiệu tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phần 2, quán triệt những nội dung đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới.

Qua việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”, bản thân có đôi điều suy nghĩ về việc xây dựng khối đại đoàn kết trong nội bộ cơ quan, đơn vị Trường Chính trị Bến Tre.

Đoàn kết là để tập hợp sức mạnh, là sự kết hợp nhiều người, mỗi người một ưu điểm riêng mà người khác không có; đoàn kết là sự cảm thông, quan tâm, chia sẽ, giúp đỡ lẫn nhau, mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người. Đoàn kết là sự gắn kết chặt chẽ mọi người với nhau, cùng đồng lòng chung sức, hỗ trợ nhau để giải quyết công việc. Sự kết hợp ấy sẽ tạo nên sức mạnh to lớn giúp mọi người vượt qua mọi khó khăn, đem lại kết quả tốt đẹp và thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc trong dựng nước và giữ nước, vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đoàn kết là một đức tính cơ bản của người cách mạng.

Thực tiễn Việt Nam, ngay từ khi Đảng mới ra đời, Đảng đã chủ trương đoàn kết trong mọi lực lượng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng của Đảng, sức mạnh của quần chúng được tập hợp và phát huy, trở thành động lực và sức mạnh chủ yếu của dân tộc. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục nêu cao tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng, là nhân tố quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trường Chính trị Bến Tre là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy, có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, tham gia tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Với vị trí, chức năng quan trọng như vậy, xây dựng khối đại đoàn kết trong nội bộ cơ quan là vấn đề không thể thiếu.

Trường Chính trị Bến Tre với hơn 72 năm xây dựng và trưởng thành, đã có bề dày truyền thống đoàn kết cùng nhau thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị được giao. Học tập và làm theo tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh, mỗi đảng viên, giảng viên, viên chức và người lao động của Trường đã đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, tôn trọng quy định của pháp luật, nội quy, quy chế hoạt động của cơ quan; mọi biểu hiện dân chủ hình thức hoặc lợi dụng dân chủ để chia phe, chia phái làm rối loạn kỷ cương đã được lên án và loại bỏ. Trong những năm qua, Trường luôn nêu cao tính đoàn kết nội bộ, từ Đảng ủy, Ban Giám hiệu đến các bộ phận phòng, khoa, không có tình trạng mâu thuẫn nội bộ. Từ đó, Trường đã hoạt động và đạt những kết quả nhất định. Kết quả cao nhất, Trường nhận được cờ thi đua của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, bằng khen của Ủy ban nhân dân tỉnh. Tất cả những thành quả ấy là do tinh thần đoàn kết của tâp thể đội ngũ đảng viên, giảng viên, viên chức và người lao động của Trường. Để xây dựng được khối đoàn kết ấy, Trường xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên không chỉ của Đảng ủy mà phối hợp cả Ban Giám hiệu và Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở, từng đảng viên, viên chức cùng nhau xây dựng khối đoàn kết thống nhất nội bộ trong đó bắt đầu từ nội bộ Đảng ủy, Ban Giám hiệu đến các phòng, khoa. Bên cạnh đó, để xây dựng được khối đại đoàn kết, mọi người cùng đồng lòng thì lãnh đạo phải đảm bảo sự công bằng, phân công công việc hợp lý, không thiên vị, phân biệt đối xử trong công việc; khen thưởng, xử phạt nghiêm minh; thẳng thắn góp ý trong tự phê bình và phê bình với tinh thần xây dựng.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết trong nội bộ của Trường vẫn còn những “hạt sạn” nhỏ, gây ra sự so bì, tị nạnh lẫn nhau trong thực hiện công việc giữa các bộ phận phòng, khoa; vẫn còn trường hợp phê bình mang tính chỉ trích nhiều hơn là xây dựng nội bộ, né tránh khuyết điểm, đoàn kết một chiều, bằng mặt không bằng lòng, nói một đằng làm một nẻo, nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác, một số ít cá nhân chưa nêu cao tinh thần tập thể, làm việc cầm chừng, miễn cưỡng, không tự giác... Do đó, để có được sự đoàn kết thật sự, đầy đủ ý nghĩa, theo cá nhân cần thực hiện các nội dung sau:

Thứ nhất, xây dựng, tạo lập sự đồng thuận trên dưới một lòng từ tập thể Đảng ủy, Ban Giám hiệu, đội ngũ viên chức lãnh đạo, quản lý và các viên chức, người lao động cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung là hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, phấn đấu xây dựng trường chính trị đạt chuẩn. Muốn có sự đồng lòng, vấn đề đầu tiên trường cần quan tâm là khắc phục “điểm nghẽn” trong tuyên truyền thông tin đến các bộ phận, cá nhân; đảm bảo sự công bằng và bình đẳng, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp cho đội ngũ viên chức, bao gồm cả giảng viên thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và các viên chức thực hiện nhiệm vụ chuyên môn ở phòng.

Thứ hai, xây dựng tinh thần tự phê bình và phê bình thẳng thắn, góp ý mang tính chất xây dựng, tiến bộ, phát triển, giúp nhau khắc phục khuyết điểm, tự vươn lên hoàn thiện bản thân. Tự phê bình và phê bình là phương thức tốt nhất để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết và thống nhất, tuy nhiên, phê bình phải được thực hiện với tinh thần “yêu thương lẫn nhau”, vì trách nhiệm chung. Xây dựng khối đoàn kết nhưng phải tránh trường hợp đoàn kết một chiều, đoàn kết hình thức. Những hành vi lợi dụng, đấu tranh, phê bình để chỉ trích làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết trong tập thể cần được chỉ ra và khắc phục. Muốn vậy, Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Chi bộ, phòng, khoa cần khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người phát huy dân chủ, mạnh dạn trao đổi ý kiến, qua đó, tăng cường tinh thần trách nhiệm của các thành viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết.

Thứ ba, xây dựng môi trường làm việc thân thiện cởi mở, tin cậy lẫn nhau, có sự bao dung, rộng lượng, tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển. Trong quan hệ giao tiếp cần bình tĩnh, tôn trọng và lắng nghe, không suy diễn chủ quan áp đặt, độc đoán; quan tâm tạo điều kiện động viên, chia sẽ khích lệ mọi người trong thực hiện công việc chung, không tị nạnh, so bì để tạo sự gắn kết đồng thuận, giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ.

Thứ tư, xây dựng niềm tin cho đội ngũ đảng viên, giảng viên, viên chức và người lao động. Niềm tin thể hiện qua mối quan hệ gần gũi, tin cậy lẫn nhau. Muốn có niềm tin, Đảng ủy, Ban Giám hiệu cần tiếp tục thực hiện tính công khai, dân chủ. Càng dân chủ, rộng rãi, mọi người càng có niềm tin vào sự lãnh đạo, từ đó tạo được sự đồng thuận thực hiện những chủ trương, kế hoạch mà Đảng ủy, Ban Giám hiệu đề ra.

Tóm lại, để xây dựng được khối đại đoàn kết trong cơ quan, đòi hỏi mọi cá nhân phải cân bằng hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, trong đó nhấn mạnh lợi ích chung, tất cả mọi người cùng hướng về một mục tiêu, một đầu mối. Làm được điều này, Trường Chính trị Bến Tre sẽ ngày càng phát triển, vững mạnh./.

Ngày Đăng :

ThS. Dương Quốc Hoàng
Bí thư Đảng ủy

1. Vấn đề thứ nhất: Nội dung cốt lõi của chuyên đề

Chuyên đề thể hiện 02 phần nội dung sâu sắc:

1.1. Phần thứ nhất: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Trong phần này đảng viên, viên chức, người lao động đọc lại, học lại, hệ thống lại để thấm sâu các quan điểm, tri thức nền tảng: Đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược quyết định thành công của cách mạng Việt Nam; nguyên tắc, phương pháp, lực lượng và hình thức tổ chức đại đoàn kết dân tộc; đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc và là đức tính cơ bản của người cách mạng; phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh cần quán triệt sâu các nội dung: Xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền trong sạch, vững mạnh làm hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng; đạo đức Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; phong cách Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; các bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng về đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

1.2. Phần thứ hai: Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới

Nội dung cốt yếu trong phần này là xác định những vấn đề đặt ra về đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình hiện nay; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực, nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc; tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và một số nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

2. Vấn đề thứ hai: Quán triệt có hiệu quả trong toàn Đảng bộ Hướng dẫn số 108-HD/BTGTW; Kế hoạch số 360-KH/BTGTW; Kế hoạch số 214-KH/TU, ngày 13/12/2019; Kế hoạch số 20-KH/ĐUK, ngày 19/12/2019 về học tập và thực hiện chuyên đề năm 2020 “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Kế hoạch số 371-KH/TCT, ngày 13/12/2019 về sinh hoạt chuyên đề quý I năm 2020 của Trường Chính trị.

3. Vấn đề thứ ba: Xây dựng kế hoạch, đăng ký làm theo

3.1. Đối với Đảng ủy, các chi bộ

Nghiên cứu, thực hiện chuyên đề năm 2020 gắn với nhiệm vụ trong các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương khóa XII của Đảng; Nghị quyết Đại hội và các nghị quyết của Tỉnh ủy khóa XI; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường, nhiệm kỳ 2020-2025, để chọn đầu việc “làm theo” cho phù hợp.

Định kỳ (gắn với các cuộc sinh hoạt của Đảng ủy, chi bộ hàng tháng) tổ chức sinh hoạt những nội dung có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ chính trị của cơ quan, Đảng bộ và các chi bộ để thảo luận, bàn bạc các giải pháp khắc phục hạn chế, khó khăn; đánh giá kết quả làm theo và báo cáo về cấp ủy cấp trên.

Đối với các chi bộ: Nghiên cứu, thảo luận xây dựng kế hoạch, đề ra giải pháp học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, (thời gian hoàn thành cuối tháng 02/2020)

 Bí thư và chi ủy các chi bộ thường xuyên đưa nội dung chuyên đề vào sinh hoạt chi bộ; kiểm tra, đánh giá và báo cáo cụ thể về Đảng ủy.

 Ủy ban kiểm tra Đảng ủy theo dõi, nắm tình hình giúp Đảng ủy sơ, tổng kết và tham mưu báo cáo về Đảng ủy Khối theo quy định (6 tháng và cuối năm).

3.2. Đối với đảng viên, viên chức và người lao động

Tất cả đảng viên, viên chức và người lao động phải xây dựng kế hoạch thực hiện gắn với bản cam kết thực hiện các quy định, nghị quyết của Đảng năm 2020. Nội dung cam kết, căn cứ kế hoạch của Đảng ủy, chi bộ và chức năng, nhiệm vụ được giao, liên hệ Chuyên đề năm 2020 để đề ra giải pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm của mình và phương hướng phấn đấu, làm theo.

 Đối với đảng viên, đoàn viên, viên chức và người lao động: hoàn thành nội dung đăng ký và thông qua chi bộ, chi đoàn (thời gian hoàn thành giữa tháng 3/2020).

Trên đây là những điểm cần quan tâm đặc biệt trong học tập và thực hiện chuyên đề 2020 tại Đảng bộ Trường Chính trị./.

Ngày Đăng :

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2018)

Văn bản đính kèm:
de_cuong.pdf
Ngày Đăng :

Thạc sĩ Phan Văn Thuận
Trưởng Khoa Xây dựng Đảng
 

Người ta thường nói "Dân chủ và kỷ luật – kỷ cương là sức mạnh của một tập thể". Thực tế sinh động chứng minh rằng ở đâu, khi nào dân chủ được thực thi thì ở đó sẽ phát huy tốt tiềm năng, trí tuệ và sự sáng tạo của con người. Có dân chủ thì mọi người được biết, được tự do bàn bạc, tự do đóng góp ý kiến và tự do thực hiện quyền làm chủ của mình. Qua đó xuất hiện nhiều ý kiến hay, có giá trị cho công việc chung của tập thể. Còn kỷ luật, kỷ cương được hiểu là những quy định tạo nên tính thống nhất trong mọi hoạt động, giúp định hướng cho các thành viên trong tập thể tập trung vào giải quyết những công việc mà tập thể đang đòi hỏi ở mỗi cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Như vậy, dân chủ và kỷ luật, kỷ cương sẽ góp phần tạo ra sự tự giác và thống nhất giúp huy động được một cách có hiệu quả tiềm năng và sự nhiệt huyết của mọi người đóng góp cho tập thể.

Giữa dân chủ và kỷ luật – kỷ cương có mối quan hệ lẫn nhau, bổ sung cho nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật – kỷ cương, tức là dân chủ phải có nguyên tắc, tuân thủ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức, đơn vị. Dân chủ cần phải có “chuyên chính” để giữ gìn lấy dân chủ. Kỷ luật chính là phương tiện để bảo vệ nền dân chủ, bảo vệ lợi ích của nhân dân, của đảng viên, của tập thể…

Việc phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật - kỷ cương, nâng cao tinh thần trách nhiệm “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, xây dựng nhà trường vững mạnh, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, trong giai đoạn cách mạng hiện nay là điều hết sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh chúng ta tập trung quán triệt và thực hiện “phương châm 10 chữ” của Đại hội lần thứ X Đảng bộ tỉnh: “Dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, năng động, đổi mới”. Muốn thực hiện có hiệu quả cao nhất, điều quan trọng trước hết là phải gắn với việc tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, các quy định về kỷ luật, kỷ cương hành chính với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, quy định những điều đảng viên không được làm, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong toàn Trường... Trong đó, quán triệt và thực hiện nghiêm túc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ và kỷ cương là nền móng, là chìa khóa tạo nên sự đoàn kết thống nhất, năng động và đổi mới trong toàn Trường.

Thứ nhất, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định “dân chủ là của cải quý báu nhất”, thực hành dân chủ “là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Nhưng Người cũng đặc biệt yêu cầu thực hành dân chủ nghĩa là dân chủ với nhân dân phải gắn liền với chuyên chính, trừng phạt bọn phản động và giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật. Thái độ của Người không có sự thỏa hiệp, lơi lỏng kỷ luật, kỷ cương dưới bất cứ danh nghĩa nào, mà yêu cầu phải chú ý coi trọng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương để bảo đảm cho Đảng luôn đoàn kết thống nhất, tăng cường sức mạnh, bảo đảm dân chủ trong hoạt động của Đảng, không có dân chủ chung chung, dân chủ hình thức hoặc dân chủ quá trớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cảnh báo việc đảng viên không chấp hành kỷ luật, xem thường kỷ luật, không thực hành dân chủ trong Đảng là: "Không nghiên cứu nghiêm chỉnh và chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, không tôn trọng pháp luật và thể lệ của Nhà nước. Tự cho mình là đúng, hành động theo ý riêng, phát biểu theo ý riêng, không báo cáo và xin chỉ thị của cấp trên, xem thường tổ chức và kỷ luật" (Hồ Chí Minh, toàn tập, t.11, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.24). Người nhấn mạnh, không thể có đảng viên nào có thể đứng trên Đảng, tự cho mình là hơn Đảng. Chính vì vậy, cần phải tạo mọi điều kiện thu hút tất cả mọi người tham gia xây dựng chủ trương, nghị quyết, xác định các mục tiêu và biện pháp thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị. Cần có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không áp đặt và cần tạo môi trường, điều kiện để mọi người có sự đối thoại, trao đổi trong quá trình hoạt động. Bác chỉ rõ: “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý” (Sđd, tập 8, tr.216), “được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy". Đối với mọi vấn đề, mọi người “cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt” (Sđd, tập 7, tr.456) và "khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý" (Sđd, tập 8, tr. 216.)

Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan, phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống lại cái thói "cả vú lấp miệng em", ngăn cản quần chúng phê bình, đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ. Người cũng phê phán nghiêm khắc tình trạng “không thực hiện chế độ dân chủ tập trung, không tuân theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Phớt kỷ luật và chính sách của Đảng và của Chính phủ. Khinh rẻ ý kiến của cấp dưới. Xem thường chỉ thị của cấp trên. Không muốn chịu kiểm tra, không muốn nghe phê bình" (Sđd, t.7, tr.295). Đồng thời, Người yêu cầu: "Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật" (Sđd, t.7, tr.241) và "... thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất kỷ luật, tập trung lãnh đạo là việc cực kỳ cần thiết và cực kỳ quan trọng" (Sđd, t.7, tr.335). Để giữ vững kỷ luật, để thực hành dân chủ thì phải nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng" (Sđd, t.12, tr.510). Muốn vậy, "tự phê bình và phê bình phải ráo riết, triệt để, không nể nang, không thêm, không bớt, không dùng những lời mỉa mai, cay độc, châm chọc, phải vạch rõ cả ưu điểm lẫn khuyết điểm, phê bình căn cứ vào việc làm chứ không suy diễn, quy kết", “không nên đao to, búa lớn” mà “phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau” (Sđd, t.12, tr.510).

Thứ ba, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ phải được thể hiện trong mọi hoạt động, kể cả trong lề lối làm việc, sinh hoạt. Muốn cho dân chủ được thực hành rộng rãi, kỷ luật được chấp hành nghiêm túc thì phải coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, tự phê bình và phê bình, cả từ trên xuống và từ dưới lên. Người chỉ rõ: "Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên... Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập trường cách mệnh" (Sđd, t.6, tr.9). Người cho rằng: “Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn “đèn pha”. Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng, chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra. Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo, thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười gấp trăm” (Sđd, H.2002, tập 5, tr.250-251).

Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, con người nói chung, đặc biệt là người phương Đông coi trọng thực tiễn hơn lý thuyết, “giàu tình cảm” và “đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” (Sđd, tập 1, tr.263). Do vậy,  Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo. Khi địa vị càng cao, uy tín càng lớn, Người càng ra sức tự hoàn thiện mình và trong thực tế, Người đã trở thành tấm gương sáng ngời về tư tưởng và phong cách, tâm hồn và đạo đức “vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ” của người cộng sản mẫu mực, một “nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp”. Người cũng thường nhắc nhở chúng ta: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” (Hồ Chí Minh, toàn tập, t.11, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.552). Chính vì vậy, thực hiện dân chủ và kỷ luật - kỷ cương cần đặc biệt chú trọng việc đề cao trách nhiệm và sự gương mẫu của người đứng đầu.

Trước hết cần tập trung thực hiện nghiêm túc Quy định số 101 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quy định số 06 của Tỉnh ủy về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cả về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong; về tự phê bình, phê bình; về quan hệ với nhân dân; về trách nhiệm trong công tác. Đặc biệt nhất là về ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; phát huy dân chủ đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, gương mẫu chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quyết định, sự phân công, điều động của tổ chức; đi đầu thực hiện nền nếp, chế độ sinh hoạt đảng, các nội quy, quy chế, quy định của tổ chức, cơ quan. Hết lòng chăm lo xây dựng và tăng cường đoàn kết nội bộ; quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng trong cơ quan; công tâm với cán bộ dưới quyền; hợp tác với đồng chí, đồng nghiệp để không ngừng tiến bộ. Chân thành giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp trong công tác và trong cuộc sống; bảo vệ uy tín, danh dự chính đáng của đồng chí, đồng nghiệp; không tranh công, đổ lỗi, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, khuyết điểm cho người khác và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện chia rẽ, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ.

Thứ năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới... Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động, mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình” (Hồ Chí Minh, toàn tập, t.10, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.103). Chính vì vậy, để thực hiện dân chủ, giữ vững kỷ luật – kỷ cương, xây dựng khối đoàn kết vững chắc, cần cụ thể hóa các quy định, chế độ… chung; xây dựng và thực hiện nghiêm túc các quy chế hoạt động trong nhà trường. Trong đó, chú trọng tính khoa học, tính cụ thể và tính pháp l‎ý của từng bản quy chế. Tất cả các điều khoản trong quy chế cần được nghiên cứu kỹ lưỡng về nhiều mặt, được thảo luận dân chủ, đạt sự thống nhất cao khi ban hành và thực hiện nghiêm túc trong mọi hoạt động… Trong đó, ai cũng thấy được vai trò và trách nhiệm của mình để không ngừng phấn đấu vươn lên về mọi mặt trình độ kiến thức, tri thức, năng lực và ý thức “làm chủ”, tinh thần trách nhiệm của mình trong “phụng công thủ pháp”.

Như vậy, thực hiện tốt dân chủ sẽ củng cố và giữ vững kỷ luật - kỷ cương. "Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Đó chính là nền móng, là chìa khóa tạo nên sự đoàn kết thống nhất, năng động và đổi mới trong toàn đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Đó cũng chính là cách thiết thực nhất để cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả “phương châm 10 chữ” của Đại hội lần thứ X Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020./.

Ngày Đăng :

Thạc sĩ Phan Văn Thuận
Trưởng khoa Xây dựng Đảng

Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất”. Cả cuộc đời và sự nghiệp của mình, Người đã hy sinh cho độc lập và thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân, hòa bình và hữu nghị cho các dân tộc trên toàn thế giới. Đó là biểu hiện tập trung nhất của đạo đức cách mạng. Hơn thế nữa, Người là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức và đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một di sản vô giá. Đó là hệ thống quan điểm về một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng, và bản thân Người là một tấm gương sáng ngời về thực hành đạo đức cách mạng.

Và chính Bác Hồ cũng đã nói với chúng ta: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt… ngày càng thêm”.

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một con người chân chính, bình thường, ai cũng có thể học theo, làm theo để trở thành một người lãnh đạo tốt, một cán bộ tốt, một đảng viên tốt, một người công dân tốt. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: "Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, soi sáng mà không choáng ngợp, mới gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu". Vì vậy, “Học Hồ Chủ tịch thực ra dễ lắm, vì những điều Hồ Chủ tịch dạy chúng ta đã có sẵn trong tâm hồn, trong trí óc. Chúng ta hãy phản tỉnh lại thì thấy trong đáy lòng, trong ký ức, câu Trung với Nước, Hiếu với Dân, đoàn kết phấn đấu, cần, kiệm, liêm, chính chúng ta đã học từ thời cha ông. Chúng ta hãy hồi tỉnh lại, chúng ta sẽ thấy hiểu Hồ Chủ tịch hơn nhiều và làm những điều Hồ Chủ tịch dạy sẽ không còn khó nữa” (Phạm Văn Đồng - Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc – tháng 8/1948).

Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phải xuất phát từ “chữ tâm”. Điều đó trước hết là xuất phát từ tấm lòng yêu kính Bác, một con người đã hy sinh cả cuộc đời mình cho đất nước, cho nhân dân, cho chính chúng ta. Mặc khác, mục đích của việc học tập và làn theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Bác còn vì mục đích là để “làm người”, để “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, toàn tâm, toàn ý “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một cuộc vận động lớn vừa có ý nghĩa lâu dài trong đời sống văn hoá của dân tộc, vừa có ý nghĩa thiết thực đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay là phải chặn đứng và xoá bỏ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội, trước hết trong không ít cán bộ, đảng viên. Thực chất cuộc vận động là tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, như căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

 Vì vậy, học tập và rèn luyện theo gương Bác không phải chỉ ở những thử thách lớn lao, những công việc trọng đại sống còn… (mặc dù đây là nội dung chủ chốt nhất) mà còn ngay trong những hoạt động, sinh hoạt nhỏ nhặt đời thường nhất như Bác thường dạy chúng ta: “muốn đi xa, trước hết phải đặt chân từ trong nhà”. Chính vì vậy, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người, mỗi chúng ta dù ở chức danh, địa vị nào xin hãy chớ vội nghĩ đến những gì to tát, cao xa mà trước hết hãy bắt đầu ngay từ những gì nhỏ bé nhất, đời thường nhất, như những câu chuyện nhỏ về việc tuân thủ kỷ luật của Bác.

Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến việc tăng cường quản lý, giữ nghiêm kỷ luật, ghép mình vào tổ chức đối với cán bộ đảng viên. Người kết luận: “Tất cả cán bộ, đảng viên phải giữ tính kỷ luật, tính tổ chức. Nhớ rằng không có việc gì làm ngoài tổ chức, ngoài kỷ luật mà thành công”. Người cũng rất kiên quyết với những cán bộ, đảng viên mắc bệnh kiêu ngạo, công thần, tự cao, tự đại mà không sửa chữa. Nếu không tăng cường giáo dục và kỷ luật, không đấu tranh chống tư tưởng tự do vô tổ chức, vô kỷ luật thì một số cán bộ, đảng viên dần dần sẽ “mất cả tư cách và đạo đức người cách mạng, sa vào tham ô, hủ bại, tự cho mình có đặc quyền, đặc lợi và biến thành người có tội với Đảng, với Chính phủ, với nhân dân”.

Câu chuyện thứ nhất, trong quyển “Bác Hồ với chiến sĩ”- tập 1 (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân), tác giả Nguyễn Dung đã kể: Đầu năm 1946, cả nước ta tiến hành cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên. Gần đến ngày bầu cử, tại Hà Nội là nơi Bác Hồ ra ứng cử có 118 vị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và đại biểu các giới hàng xã, đã công bố một bản đề nghị: “Yêu cầu Cụ Hồ Chí Minh không phải ứng cử trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới. Chúng tôi suy tôn và ủng hộ vĩnh viễn Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch của Nước Việt  Nam Dân chủ Cộng hoà”. Từ nhiều nơi trong cả nước đồng bào viết thư đề nghị Bác không cần ra ứng cử ở một tỉnh nào, nhân dân cả nước đồng thanh nhất trí cử Bác vào quốc hội. Trước tình cảm tin yêu đó của nhân dân, Bác viết một bức thư ngắn cảm tạ đồng bào và đề nghị đồng bào để Bác thực hiện quyền công dân của mình: “Tôi là công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nên tôi không thể vượt khỏi thể lệ của tổng tuyển cử đã định, tôi đã ra ứng cử ở Hà Nội nên tôi không thể ra ứng cử ở nơi nào nữa. Xin cảm tạ đồng bào đã có lòng yêu tôi và yêu cầu toàn thể đồng bào hãy làm tròn nhiệm vụ người công dân trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới”.

Câu chuyện thứ hai được tác giả Phan Văn Xoăn, Hoàng Hậu Kháng và Hoàng Nam đã kể lại trong quyển “Những năm tháng bên Bác” (do nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 1995): Sau ngày hoà bình lập lại, có lần Bác đi thăm một ngôi chùa cổ. Hôm ấy là ngày lễ, các vị sư, khách nước ngoài và nhân dân đi lễ rất đông. Bác vừa vào chùa vị sư cả liền ra đón Bác và khẩn khoản xin Người đừng cởi dép nhưng Bác không đồng ý. Đến thềm chùa Bác dừng lại để dép ở ngoài như mọi người xong mới bước vào và giữ đúng mọi nghi thức như người dân đến lễ. Trên đường từ chùa về, khi vào đến thành phố xe Bác đến một ngã tư thì vừa lúc đèn đỏ bật. Sợ phố đông xe dừng lâu, đồng chí bảo vệ định chạy lại đề nghị đồng chí công an bật đèn xanh để Bác đi. Bác hiểu ý ngăn lại: “Các chú không được làm thế phải tôn trọng và gương mẫu chấp hành luật lệ giao thông, không được bắt luật pháp dành quyền ưu tiên riêng cho mình”.

Qua những việc làm hết sức đơn giản, đời thường ấy, Bác dạy chúng ta một bài học sâu sắc về cách sống, cách làm người giữa xã hội với nhiều mối quan hệ rất đa dạng và nhất là bài học về sự gương mẫu chấp hành qui tắc, luật lệ chung với “chữ tâm” của mình. 

Nói xuất phát từ “chữ tâm” khi học tập và làm theo Bác còn bởi vì tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng luôn phải đối đầu với “kẻ địch nguy hiểm’ của đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân. Theo Bác, vì chủ nghĩa cá nhân mà nhiều người mắc bệnh tự phụ, tự cao tự đại... cho mình đã là người tốt rồi, tài giỏi hơn người rồi, tự cho mình là “cách mạng già”, “cách mạng cũ”, hoặc “biết mình có khuyết điểm nhưng không chịu sửa”, hoặc chỉ chú trọng về hình thức, nặng về phong trào thuần túy… thì khó có thể học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả. Hãy xuất phát từ “chữ tâm” để thật sự khiêm tốn đánh giá lại mình, lắng nghe lời phê bình chân thành của đồng chí, đồng nghiệp, bạn bè, của nhân dân…để “sửa mình” và ghép mình vào tổ chức, tuân thủ kỷ luật triệt để “hoàn thiện mình”…, đó là một cách học tập “có chất lượng” bài học đạo đức Hồ Chí Minh.

Tư tưởng  “phụng công thủ pháp” là nguyên tắc hoạt động mà người cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải ghi nhớ và thực hành triệt để, góp phần vào việc giữ vững “kỷ cương” của đơn vị…; không nên quá coi trọng “cái tôi” mà nhiều lúc sống theo suy nghĩ chủ quan, vi phạm các nguyên tắc chung của xã hội, của tổ chức và cần nghiêm túc khắc phục, sửa chữa, xứng đáng hơn nữa với tấm gương của Bác từ những việc làm thiết thực hàng ngày như Bác từng dừng lại vài chục giây trước đèn giao thông hay tự giác cởi dép khi vào chùa… Nếu xuất phát từ chữ “tâm” thì việc tuân thủ một cách nghiêm túc “luật lệ”, kỷ luật, kỷ cương sẽ trở thành một thói quen bình dị, tự nhiên, không khiên cưỡng… từ những hành động “nhỏ” như đeo “thẻ viên chức”, “thẻ học viên”, “đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy” hoặc “vào cổng xuống xe” khi đến cơ quan theo qui định...; đến việc chấp hành nghị quyết của tổ chức, chỉ thị, kết luận của lãnh đạo…  Từ đó, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng sẽ trở thành một việc tự giác và thiết thực nhất, đáp ứng yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách của Đảng ta, Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung cũng như từng bước xây dựng và nâng cao “trình độ văn hóa” cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói riêng./.

Ngày Đăng :

Thạc sĩ Nguyễn Thành Phương
Trưởng khoa LLMLN, TT HCM

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dâng hiến trọn cuộc đời mình cho dân, cho nước, vì độc lập dân tộc, vì tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Đến trước lúc đi vào cõi vĩnh hằng Người còn để lại những dặn dò hết sức cụ thể cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cho mỗi con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ thanh niên, lực lượng quyết định cho sự hưng thịnh của quốc gia dân tộc trong hiện tại cũng như trong tương lai. Tôi cho đó là một kho tàng về lý luận cũng như về thực tiễn hết sức quý báu, một lời căn dặn hết sức tỉ mỉ, một sự dự báo, dự đoán hết sức tài tình và đồng thời cũng là lòng mong ước, hoài bão lớn nhất của một vị lãnh tụ vĩ đại đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, đối với Đảng, với phong trào cách mạng không chỉ của Việt Nam mà của cả toàn thế giới.

Thời gian và không gian đã thay đổi, gần nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng những lời căn dặn của Người mãi mãi như là ánh hào quang soi sáng đường chúng ta đi, luôn luôn nhắc nhở chúng ta trong quá trình hoàn thành nhiệm vụ của mình đối với dân, với nước dù ở bất kỳ tình huống và hoàn cảnh nào.

Điều tâm đắc lớn nhất của tôi trong những lời dạy của Bác đối với cuộc vận động Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người hiện nay đó là: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan trọng và cấp thiết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt kỳ vọng vào thanh niên. Nhớ lại năm 1945, khi nước nhà vừa giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu.

Ngay từ tháng 01/1946, trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Là một lãnh tụ vĩ đại, có tầm nhìn xa trông rộng, hơn ai hết, Người thấu hiểu vai trò vô cùng to lớn của lực lượng thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc bảo vệ, xây dựng, kiến thiết nước nhà.

Người còn ân cần căn dặn: "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây đựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Theo tôi, hiện nay để lực lượng thanh niên thực hiện tốt Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta cần trang bị cho họ về thế giới quan duy vật, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và phương pháp luận biện chứng, nhằm giúp họ nhận thức đúng về vai trò của mình mà có tư tưởng, hành động cách mạng tiến công, từng bước hình thành, hoàn thiện và phát triển toàn diện nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.

1. Yêu cầu về tư cách của thanh niên trong giai đoạn hiện nay

Với ba nội dung chủ yếu nhất sau đây có tính bao quát toàn bộ các mặt của nó mà chủ tịch Hồ Chí Minh hay nêu:

Một là, đoàn viên, thanh niên phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng, của dân tộc. Đó chính là mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ đó mà Lý Tự Trọng đã từng nói: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác!”.

Bác luôn mong lớp lớp thanh niên sau này sẽ không chùn bước trước những khó khăn trước mắt, luôn vững chí bền tâm vượt qua thử thách để hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. “Không có việc gì khó; Chỉ sợ lòng không bền; Đào núi và lắp biển; Quyết chí ắt làm nên”.

Paven Copsagine trong tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy”: "Cái quí nhất của con người là cuộc sống. Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay, mà có thể nói rằng: Tất cả đời mình ta đã cống hiến cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người. Và ta phải sống gấp lên mới được. Vì bệnh tật vô lý hay một sự bi đát tình cờ nào đó có thể bỗng nhiên cắt đứt cuộc đời này".

Hai là, người đoàn viên, thanh niên phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên, Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra nguyên tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”.

Trong việc chống chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do đó mà nó sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm như: Bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, bệnh thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc thực dụng, óc lãnh tụ. Chủ nghĩa cá nhân việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.Hồ Chí Minh rất coi trọng lợi ích cá nhân, miễn là lợi ích cá nhân của cán bộ, đoàn viên, thanh niên là phù hợp với lợi ích của Đảng, của cách mạng.

Trong cuộc sống, nhiều khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích của Đảng, nhưng cũng có lúc không, vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng”; đoàn viên, thanh niên “phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết…Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đoàn viên, thanh niên phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”.

Ba là, người đoàn viên, thanh niên phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là tấm gương sáng về đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan tỏa, thẩm thấu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ các dân tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu đoàn viên, thanh niên không có một đời tư trong sáng thì sẽ không thuyết phục, vận động được nhân dân trong các phong trào cách mạng. Người đoàn viên, thanh niên, ngoài việc phải hoàn thành tốt công việc chung của Đảng đã được phân công, lại phải còn là một thành viên tốt của gia đình, là một người công dân tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người chung quanh trong cùng bản làng, phum, sóc, thôn xóm…

2. Yêu cầu về phẩm chất, năng lực của thanh niên trong giai đoạn hiện nay

 Trước hết, đoàn viên, thanh niên phải có đạo đức cách mạng. Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu. Đây cũng chính là quan điểm xuất phát, một yêu cầu có tính chất tiên quyết đối với cán bộ cách mạng. Không ít lần, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”, người cán bộ cách mạng không phải là người “làm quan cách mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ là để “thăng quan tiến chức”, không phải như dưới thời thực dân phong kiến “một người làm quan cả họ được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời thực dân, phong kiến”,…Người đoàn viên, thanh niên phải tận tụy với sự nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Trung thành ở đây trước hết đòi hỏi đoàn viên, thanh niên phải hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và kể cả khi thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì không kiêu căng, chủ quan, tự mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ, trở ngại thì không hoang mang, dao động; “vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi”; phải luôn luôn có ý thức và hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc. Trung thành với cách mạng là phải hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng hết sức tránh.

Hai là, về năng lực, đoàn viên, thanh niên phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Muốn thế, phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống, ngoài yêu cầu về việc đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng đắn, còn có việc phải tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi. Không như thế thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể nhân dân chỉ nằm trên giấy.

Cán bộ, đoàn viên, thanh niên phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu đối với cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng nhưng trong thời kỳ Đảng cầm quyền càng đặc biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán bộ, đảng viên bằng hành động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục; đừng có mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu dân, kính dân; phải việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

Cán bộ, đoàn viên, thanh niên phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học suốt đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi; học, học nữa và học mãi,…đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào trong cuộc sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Hồ Chí Minh cho rằng, ngày nay không thể lãnh đạo chung chung được nữa, rằng, chỉ có lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tri thức nữa. Hồ Chí Minh suốt đời chăm chỉ học tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn còn học; học ở nhà trường, học trong cuộc sống, và quan niệm của Hồ Chí Minh học không phải là để có bằng cấp, để thăng chức.

3. Yêu cầu cán bộ đoàn viên, thanh niên phải có phong cách tốt

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn có phong cách công tác tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái, ham chuộng hình thức, phô trương cho oai, làm đại khái, qua loa. Phải sâu sát, tỉ mỉ; nắm việc lớn, phải giải quyết bắt đầu từ những việc cơ bản, không cận thị (tức là chỉ nhìn gần mà không nhìn xa trông rộng được), có đầu óc quan sát; phải chân đi, miệng nói, tay làm, không như thế thì đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo công văn nhưng công việc không chạy.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều này đúng như điều tất yếu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu: Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra, do đó, Đảng phải thường xuyên phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, và đó chính là quy luật phát triển của một Đảng Mác-Lênin, một Đảng chiến đấu dưới lá cờ của chủ nghĩa cộng sản, vì một xã hội tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người.

Riêng về phong cách công tác của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới các vấn đề chủ yếu: Sửa cách lãnh đạo về công tác cán bộ; biết chọn trình tự ưu tiên công việc; thường xuyên tổng kết công tác; phải luôn luôn có sáng kiến; sâu sát, gần gũi nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ; có lãnh đạo chung nhưng có chỉ đạo điểm.

Đào tạo, bồi dưỡng họ về phẩm chất đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là phẩm chất chính trị mà cốt lõi là bản lĩnh chính trị.

Đào tạo, bồi dưỡng họ về năng lực tư duy, tư duy lý luận, năng lực nhận thức, nhận thức biện chứng duy vật,  năng lực chuyên môn mà nhất là năng lực hoạt động thực tiễn để vận dụng sáng tạo những tri thức lý luận vào thực tế tình hình hiện tại.

4. Nội dung cơ bản của việc đào tạo, bồi dưỡng thanh niên đối với hiện tại nhằm thực hiện tốt lời dạy của Người

Trước hết, việc nâng cao phẩm chất cho từng cán bộ, đoàn viên, thanh niên. Vấn đề này bao gồm:

Nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng hình thành lập trường, quan điểm, tư tưởng vững vàng, kiên định trước mọi khó khăn, thách thức, hình thành bản lĩnh chính trị cho từng đảng viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước dân, trước Đảng về việc làm của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà, vì vậy, ngay từ hiện tại để trở thành những con người phát triển hài hoà và toàn diện, con đường duy nhất của thanh niên là không ngừng ra sức phấn đấu, rèn luyện, học tập trên tất cả các lĩnh vực, "phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá, phải thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gột rửa cá nhân chủ nghĩa"...

Nâng cao phẩm chất đạo đức nhất là đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản chống chủ nghĩa cá nhân xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

Người chỉ rõ: "Thanh niên phải luôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:

Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp.

Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện "Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm", "gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người".

Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ.

Rèn luyện và tu dưỡng về phong cách, lối sống nhất là phong cách lãnh đạo gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân. Sống mình vì mọi người, sống có mục đích, lý tưởng, hoài bảo, ước mơ, khát vọng và có quyết tâm thực hiện cho bằng được những ý tưởng cao đẹp ấy.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ân cần chỉ bảo: "Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà! Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?

Người khẳng định: "Thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn. Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.

Hai là, nâng cao trình độ nói chung cho cho từng cán bộ, đoàn viên, thanh niên. Vấn đề này bao gồm:

Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phải ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng. Người cho rằng, "Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục và thể dục". "Cốt nhất là phải dạy học trò biết yêu nước, thương nòi, phải dạy cho họ ý chí tự lập tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ".

Người căn dặn: "Chúng ta phải ghi chép và thường nhắc lại những sự tích ấy…để giáo dục thanh niên ta rèn luyện một ý chí kiên quyết quật cường, một tâm lý quả cảm xung phong, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của Tổ quốc".

Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: "Thanh niên phải chuyên tâm học hành và công tác, nhưng cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên. "Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần có những thú vui chơi văn hoá, thể dục có tính chất tập thể và quần chúng".

Ba là, nâng cao năng lực cho từng cán bộ, đoàn viên, thanh niên. Vấn đề này bao gồm:

Năng lực tư duy lý luận dựa trên thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Năng lực chuyên môn phải thông thạo, phải giỏi, năng lực tổ chức, lãnh đạo và vận động quần chúng phải nhại bén, các giác quan chính trị nhại cảm với tình hình. Năng lực hoạt động thực tiễn và tổng kết thực tiễn nhằm phát triển lý luận.

Đào tạo, bồi dưỡng họ về năng lực tổ chức, phải là nhà tổ chức. Tổ chức vận động quần chúng thành một phong trào rộng khắp, sâu bền, đặc biệt là năng lực tổ chức tổng kết thực tiễn bổ sung và phát triển lý luận.

5. Ý nghĩa cực kỳ quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng thanh niên đối với hiện tại nhằm thực hiện tốt lời dạy của Người

Trước hết, việc nâng cao phẩm chất và năng lực cho từng cán bộ, đoàn viên, thanh niên nhằm giúp cho từng cán bộ, đoàn viên, thanh niên thực hiện tốt vai trò lãnh đạo phong trào quần chúng vì đảng viên đi trước, làng nước theo sau.

Hai là, việc nâng cao phẩm chất và năng lực cho từng cán bộ đảng viên nhằm giúp cho từng cán bộ, đoàn viên, thanh niên thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa Đảng với dân. Mang nghị quyết của Đảng đến với dân, đưa nghị quyết vào cuộc sống, chuyển tải ý kiến của dân phản ánh lên Đảng để ý Đảng hợp lòng dân, dân tin Đảng.

Ba là, việc nâng cao phẩm chất và năng lực cho từng cán bộ, đoàn viên, thanh niên nhằm giúp cho từng đoàn viên, thanh niên thực hiện tốt vai trò người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Lo với cái lo của dân, vui với cái vui của dân; lo trước dân, vui sau dân; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền lực đều của dân.

Bốn là, việc nâng cao phẩm chất và năng lực cho cán bộ từng đoàn viên, thanh niên nhằm giúp cho từng cán bộ, đoàn viên, thanh niên thực hiện tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam mà trước hết và trọng tâm hiện nay là xây dựng nông thôn mới.

Trong lực lượng vĩ đại của toàn dân, Bác Hồ dành vị trí hết sức quan trọng cho thanh niên. Tháng 5 năm 1968, Người viết trong bản Di chúc lịch sử: "Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Ðảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Ðó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta".

Tóm lại, những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thanh niên nói riêng cũng như hệ thống tư tưởng của Người để lại cho đoàn viên thanh niên chúng ta hiện tại nổi bật các quan điểm lớn:

- Thanh niên là lực lượng xung kích chủ yếu của cách mạng, là chủ tương lai của nước nhà.

- Ðảng, Nhà nước phải chăm lo bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng cho thanh niên, giáo dục ý thức làm chủ và đào tạo họ thành người làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là khoa học kỹ thuật, đào tạo nghề nghiệp. Nghĩa là đào tạo họ trở thành những con người vừa hồng, vừa chuyên.

- Thanh niên phải tự vươn lên, phấn đấu, rèn luyện để thật sự là đội quân chủ lực của cách mạng.

Học tập Người mỗi đoàn viên, thanh niên chúng ta trong giai đoạn hiện nay cần thấm nhuần khẩu hiệu: Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi rằng ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay nhằm xứng đáng hơn nữa với tinh thần thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên./.

Ngày Đăng :

Trần Văn Hoà
Khoa Xây dựng Đảng

Năm 2014, chúng ta tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với chuyên đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm”, gắn với chủ đề xuyên suốt: “Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tuỵ, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị” và “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương, nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp”. Là người Việt Nam, chúng ta vinh dự, tự hào được học tập và làm theo tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác, người con vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, mãi mãi là nguồn sáng bất tận soi rọi vào mỗi tâm hồn con người Việt Nam, hướng cho mọi người với chân, thiện, mỹ của cuộc sống. Với Người, mỗi hành động, cử chỉ, lời nói, việc làm đều rất gần gũi với đời sống thường nhật của mỗi chúng ta, câu chuyện: “Sự phân công” trích trong cuốn “Kể chuyện Bác Hồ” là bài học sâu sắc nhất về ý thức đúng đắn trách nhiệm của mình trên mọi cương vị, vị trí công tác.

Chuyện kể rằng:

- Các cô, các chú nhiều người có đồng hồ ở đây chứ?

- Thưa Bác, có ạ!

- Các cô, các chú có thấy trên mặt đồng hồ kim giây chạy nhúc nhích suốt ngày đêm, kim phút di chuyển hơi chậm, kim giờ thì rề rề chuyển chỗ, chữ số nằm yên, cái máy nằm trong vỏ đồng hồ, có đúng thế không?

- Dạ, đúng ạ!

- Đó là sự phân công của bộ máy cái đồng hồ. Nếu giả sử các bộ phận ấy xin thay đổi, cái kim giây nói: “Tôi chạy thế này thì mệt quá, cho tôi chạy chậm lại hoặc nghỉ ít lâu”. Mặt số kêu lên: “Đứng mãi một chỗ chán quá, cho tôi chạy như kim giây”. Bộ máy lại nói: “Tôi làm nhiều việc mà chả ai biết đến, cho tôi làm mặt số”. Các cô, các chú thử nghĩ xem, nếu ta để các bộ phận đồng hồ làm theo ý muốn riêng của mình thì sẽ thế nào?

Cả lớp vang lên tiếng cười. Có đồng chí nói:

- Thưa Bác, như vậy không còn là đồng hồ nữa ạ!

- Trong công tác cách mạng cũng như vậy, tuỳ theo trình độ và yêu cầu mà Đảng và nhân dân giao nhiệm vụ. Ví dụ: Bác được Đảng và nhân dân giao nhiệm vụ làm Chủ tịch nước, đồng chí cảnh vệ lo công tác bảo vệ, đồng chí cấp dưỡng lo nấu ăn, đồng chí văn thư lo việc giấy tờ, mỗi người một việc, như vậy hợp lại mới thành công việc chung. Đó là sự phân công của tổ chức (Trích trong cuốn 117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh).

Câu chuyện như một lời nhắn nhủ đối với mỗi chúng ta về sự phân công và ý thức về tinh thần trách nhiệm của mình trong công việc. Trong một guồng máy, mỗi người một việc đều có sự phân công cụ thể và liên hệ chặt chẽ nhau, trong sự phân công đó, mỗi người, mỗi bộ phận đều ý thức trách nhiệm chung, không thể làm theo ý muốn riêng lẻ của mình.

Có thể nói, mọi nghề, mọi việc đều vinh quang, đều phục vụ nhân dân. Hiểu đúng công việc của mình dù nhỏ, dù khó đều có lợi ích chung là phục vụ nhân dân. Do đó, chúng ta phải an tâm, tận tụy thực hiện nhiệm vụ, không đắn đo, so bì, với công việc phải làm, làm cho đến nơi đến chốn, làm một cách tự giác, theo lương tâm, lương tri, theo nhu cầu nội tâm của cá nhân mình. Nếu làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy,... là không có tinh thần trách nhiệm. Tất cả mọi người, ở mọi địa vị, mọi công tác, mọi hoàn cảnh đều phải có tinh thần trách nhiệm.

Ôn lại những bài học quý giá, những việc làm trong sáng của Người sẽ là dịp chúng ta soi chung tấm gương lớn, và mong sao mỗi người chúng ta ở mỗi cương vị, vị trí công tác đều học và làm theo Bác, để khắc phục sự suy thoái đạo đức, lối sống bớt đi những tệ tham nhũng, quan liêu, xa hoa, lãng phí, để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”./.

Ngày Đăng :

ThS Phan Văn Thuận
Trưởng khoa Xây dựng Đảng

Khiêm tốn, giản dị là một trong những  đức tính quan trọng nhất của con người. Con người khiêm tốn là một con người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một tinh thần chủ bại mang nhiều mặc cảm của cuộc đời đối với mọi người. Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng thượng, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng nêu cao óc học hỏi, không khoe khoang, không tự đề cao cá nhân mình với người khác.

Càng muốn tạo ấn tượng, khoe khoang để lôi kéo sự chú ý của người khác, chúng ta chỉ càng tạo ra một kết quả ngược lại. Vì thật ra, chính sự khiêm nhường đáng quý mới tạo được ấn tượng tốt đẹp hơn là sự kiêu căng, thích tỏ ra hơn người. Ở đâu có tính khiêm tốn thì ở đó sẽ ít khi xảy ra giận dữ hay xung đột, bất hòa.

Tính khiêm tốn không thể đồng hành được với việc quá đề cao bản thân, lúc nào cũng xem mình là “cái rốn của vũ trụ”. Thay vào  đó là sự xem trọng, đề cao, và không ngại học hỏi từ mọi người xung quanh.

Trong cuốn “117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
do Ban Tuyên giáo Trung ương phát hành có câu chuyện mang tên “Dưới gốc đa Tân Trào” cho chúng ta thấm thía một bài học sâu sắc và sinh động về sự khiêm tốn:

“Qua mấy ngày lội suối, tắt rừng, vượt đèo, đoàn đại biểu Hà Nội do đồng chí Hoàng Đạo Thúy dẫn đầu đã tới cây đa Tân Trào, điểm liên lạc cuối cùng. Toàn đoàn khá mệt, ngồi nghỉ dưới gốc đa, có liên lạc đón và mời nước chè tươi.

Toàn đoàn đang ngắm nhìn chiến khu với sự cảm kích, hào hùng – Bởi rừng già hùng vĩ, núi non trầm mặc. Vừa lúc ấy, từ bản gần đó, một đoàn người đi ra, người quần áo Tày, người quần áo Dao. Dẫn đầu đoàn người là một cụ già mặc quần áo Tày, đội mũ sợi màu chàm, tay chống gậy. Được biết, đó là nhân dân địa phương ra đón đoàn đại biểu Hà Nội.

 Đoàn đại biểu Hà Nội vội đứng lên chào mừng nhân dân địa phương. Sau phút chào hỏi vui vẻ, đồng chí Hoàng Đạo Thúy cử đồng chí Nguyễn Tài, ủy viên dân vận của đoàn ra nói chuyện cùng nhân dân địa phương. Còn cả đoàn xin phép được ngồi nghỉ dưới gốc đa liền đó để chờ thượng cấp.

  Được gặp đồng bào ở chiến khu, với niềm tự hào là đại biểu của Hà Nội đi dự Quốc dân Đại hội (8/1945), đồng chí Nguyễn Tài dùng hết khả năng tuyên truyền của mình để nói chuyện với đồng bào: nào là tội ác của Pháp cùng Nhật xâm lược nước ta, cướp bóc thóc lúa, để hàng triệu đồng bào ta bị chết đói; nào là phát xít Đức đã đầu hàng; Hồng quân Liên Xô đã đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật; nào là lực lượng Việt Minh ta ở Hà Nội rất mạnh, khắp nước cũng rất mạnh. Thời cơ nổi dậy giành độc lập đã tới, v.v… Chúng ta lại có lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo…

 Đồng chí Nguyễn Tài vừa nói tới đây thì cụ già – người dẫn đầu đoàn nhân dân địa phương vỗ tay ngắt lời, nhân dân cùng vỗ tay hoan hô theo. Ông cụ ra hiệu, một nữ đại biểu từ trong đoàn nhân dân đứng ra đáp lời: “Nhân dân Tân Trào rất cám ơn đoàn đại biểu Hà Nội đã về dự Đại hội. Đại biểu vừa rồi đã nói chuyện với nhân dân nhiều ý hay, lời đẹp. Dân ở đây cũng được cán bộ Việt Minh, nhất là ông Ké dạy bảo nhiều. Hợp với ý của đại biểu vừa nói. Như vậy là xuôi ngược một lòng cứu nước. Chúc các đại biểu Hà Nội thu nhiều kết quả”.

Nữ đại biểu phát biểu xong, thì nhân dân trở về bản. Đoàn đại biểu Hà Nội cũng đứng dậy, đôi bên vẫy tay nhau.

Ông cụ vẫy đồng chí Nguyễn Tài lại gần, cầm tay như dắt đi. Vừa đi, vừa hỏi:

    - Đồng chí thấy nữ đại biểu nói thế nào?

    - Dạ, nữ đồng chí ấy nói ngắn, nhưng thể hiện trình độ khá cao. Cháu đang băn khoăn là mình nói hơi thừa…

Ông Ké tủm tỉm cười, nhẹ nhàng bảo đồng chí Tài:

    - Chú cần nhớ là Hà Nội bị địch chiếm trước, trên này bị địch chiếm sau. Bây giờ trên này lại được giải phóng trước, Hà Nội vẫn bị quân giặc cướp nước thống trị. Cho nên người đi sau không nên chỉ đường cho người đi trước.

Đồng chí Nguyễn Tài giật mình nhìn ông Ké: Trời ơi! Ông già miền núi gầy gò, mảnh khảnh kia nói đơn giản nhưng đầy ý nghĩa: “Người đi sau sao lại chỉ đường cho người đi trước”. Đồng chí Nguyễn Tài vội vàng nắm tay ông già: “Cháu hiểu ra rồi ạ!”. Nhìn theo bóng ông cụ bước đi, Nguyễn Tài thầm nghĩ: “Việt Minh mình có những sức mạnh, chính là ở những con người này đây”.

Thấy đồng chí Nguyễn Tài đi theo ông Ké một lát rồi bần thần đứng lại, đồng chí Hoàng Đạo Thúy liền tới gần và hỏi: “Ông Ké bảo gì, mà cậu ngẩn ngơ ra vậy?”.

 Đồng chí Nguyễn Tài kể lại lời ông Ké. Đồng chí Hoàng Đạo Thúy gật đầu bảo: “Phải nhắc nhở anh chị em mình, trò chuyện với nhân dân vùng giải phóng, phải cẩn trọng”. Nhìn theo bóng ông cụ, rồi đồng chí Thúy thầm thì với đồng chí Tài: “Không khéo ông Ké ấy chính là cụ Nguyễn Ái Quốc đấy!”.

Đến ngày khai mạc Quốc dân Đại hội, những băn khoăn đó của hai đồng chí mới được rõ ràng: ông Ké ấy chính là cụ Nguyễn Ái Quốc”.

Theo Đại từ điển tiếng Việt (do Nguyễn Như Ý chủ biên), khiêm tốn là “không đánh giá quá cao bản thân, không tự kiêu, tự mãn”. Hay nói cách khác, cụ thể hơn: “Khiêm tốn là sự kính nhường, có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình hơn người, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, không ngừng học hỏi”. Một người khiêm tốn phải biết “tự mình”, “biết đánh giá cái hay của mình một cách vừa phải và dè dặt”, nếu không, vô hình trung sẽ trở thành tự kiêu, tự đại vì “Mình hay, còn nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi, còn nhiều người giỏi hơn mình”.

Bác Hồ của chúng ta là một người khiêm tốn, thậm chí rất khiêm tốn. Giữ chức vụ cao nhất của Nhà nước ta, là một trong những lãnh tụ xuất sắc của phong trào cách mạng thế giới…, được ghi nhận là “Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất”, nhưng Người vẫn chỉ xem mình là một nhà cách mạng chuyên nghiệp phục vụ nhân dân với “ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Là lãnh tụ tối cao, “vị cha già dân tộc” đã “làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”, nhưng Người khiêm tốn với tất cả mọi người, cả người già và trẻ em. Đối với những người giúp việc thường xuyên bên mình, Bác thường gọi hết sức thân mật và trân trọng là cô, chú như những người trong gia đình. Đối với các vị nhân sĩ, trí thức khi tiếp chuyện Bác luôn thưa gửi rất lễ độ và đúng mực. Là Chủ tịch nước nhưng Người ví mình như “người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Là người đi nhiều biết rộng, là nhà báo rất chuyên nghiệp, một cây bút rất sắc sảo, nhưng Bác chỉ cho rằng mình "có ít nhiều kinh nghiệm làm báo" mà thôi… Khi Quốc hội đề nghị tặng Bác Huân chương cao quý nhất của Nhà nước là Huân chương Sao Vàng, Người khiêm tốn từ chối và nói: Miền Nam còn chưa được giải phóng, khi nào thống nhất đất nước xin Quốc hội ủy quyền cho đồng bào miền Nam được thay mặt Quốc hội trao tặng thì tôi xin nhận…Trước sau Người vẫn là Cụ Hồ, là Bác Hồ gần gũi với mọi người, mọi nhà, dù là màu da, tiếng nói khác nhau. Tấm gương cuộc đời Bác là một định nghĩa hết sức sinh động về sự khiêm tốn.

Đồng chí Song Tùng, Đại sứ của nước ta nhiều năm ở nước ngoài có kể một câu chuyện ngắn về đức khiêm tốn của Bác như sau: Sáng ngày 23 tháng 7 năm 1957, trong bữa cơm thân mật, Chủ tịch nước Ba Lan Đa-vát-xki có hỏi Bác: “Thưa Chủ tịch, đồng chí là người nổi tiếng về khiêm tốn. Vậy thưa đồng chí, khiêm tốn phải như thế nào?” Bác đã trả lời rằng: “Khiêm tốn là nền tảng đạo đức của cả dân tộc Việt Nam. Đối với bản thân thì bao giờ cũng nhìn ra điều kém cỏi của mình. Đối với đồng chí và bạn bè thì ai cũng là thầy học của mình, tìm cho được điều mình phải học tập. Đối với kẻ thù cần biết cái mạnh của địch, cái yếu của ta”.

Lời khẳng định đó có thể xem là một định nghĩa về sự khiêm tốn. Định nghĩa này của Bác thật bao trùm, có một “cái gì đó” rất dân tộc, rất Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử giữ nước, dựng nước; rất dân gian, nhưng lại rất khoa học, thấu lý đạt tình mà cũng rất “khiêm tốn” và rất “Hồ Chí Minh”.

Ngày nay học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Bác, đối với chúng ta những cán bộ đảng viên, nhất là giảng viên trường chính trị với đối tượng học viên phong phú và có kiến thức, trình độ ngày càng cao trên nhiều lĩnh vực…, thì sự khiêm tốn, thái độ cầu thị và tôn trọng người học là những đức tính cần luôn được củng cố và nâng cao. Đó là điều sẽ giúp cho chúng ta tự tin hơn, gần gũi hơn, dễ hoà đồng hơn và làm cho mọi người kính trọng và nể phục hơn.

Ngược lại, sẽ có thể dẫn đến sự tự cao tự đại, khoe khoang, tự coi mình là “trung tâm của vũ trụ”, mà hậu quả của nó, nhẹ nhất là tình cảnh “bẽ mặt” của “đồng chí Nguyễn Tài” trong câu chuyện còn nặng hơn có thể dẫn đến “kiêu ngạo, tự phụ”, hách dịch, xem thường người khác,… – là những biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức, lối sống mà Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4, Khóa XI đã cảnh báo. Vì vậy, qua câu chuyện, chúng ta có thể bổ sung thêm trong hệ thống kiến thức của mình một “định nghĩa mới” về sự khiêm tốn và tự suy ngẫm về một bài học sinh động từ những lời dạy quý báu cũng như tấm gương cuộc đời và nhân cách Bác Hồ. Từ đó, chúng ta có thể không ngừng tự hoàn thiện mình, xứng đáng với sự kỳ vọng của Bác Hồ, của Đảng và của nhân dân; xứng đáng với vai trò và tư cách của ngưới cán bộ, đảng viên và là “người huấn luyện” của Đảng./.

Ngày Đăng :

ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN

ĐẢNG ỦY TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

*

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bến Tre, ngày 20 tháng 02 năm 2012

 

QUY ĐỊNH CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC

CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ BẾN TRE TỪ NĂM 2012 ĐẾN 2015

-----------------------------------

1. Chấp hành đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của Đảng và quy chế của nhà trường;

2. Gương mẫu thực hiện: Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị;

3. Có tinh thần, ý thức trách nhiệm, hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao với chất lượng và hiệu quả cao nhất;

4. Đoàn kết nội bộ, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, trung thực, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau, khiêm tốn, nhân ái, luôn giữ vững mối quan hệ mật thiết với học viên và quần chúng nhân dân nơi cư trú.

 

T/M ĐẢNG ỦY TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

BÍ THƯ

(Đã ký)

Nguyễn Trung Dương

 

CHUYÊN ĐỀ

hcm

Thư viện ảnh