“Chính sách kinh tế mới” (NEP) là cuộc cải cách đầu tiên của chủ nghĩa xã hội hiện thực và cũng là nơi hình thành những tư duy mới của lý luận về đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Giá trị lớn nhất của NEP là những biện pháp mới để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Với NEP, V.I.Lênin đã trở thành nhà cách tân vĩ đại đầu tiên trong lịch sử về chủ nghĩa xã hội hiện thực, để lại nhiều chỉ dẫn quý báu cho công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười năm 1917 thắng lợi, nhà nước Xô-viết - chế độ xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã ra đời ở nước Nga. Với “Chính sách cộng sản thời chiến” (thực hiện từ năm 1918 đến đầu năm 1921) sau một thời gian thực hiện phương pháp mệnh lệnh hành chính đã bộc lộ bất cập trong hoàn cảnh cụ thể của nước Nga đương thời. Tình trạng trì trệ đã xuất hiện, thậm chí đã có cả những phản ứng gay gắt của xã hội, như “vụ nổi loạn Cronxtat”. V.I.Lênin đã nhận ra, giải pháp tình thế chỉ đúng trong thời điểm ngặt nghèo, nay đã trở thành khuyết điểm khi nó bị kéo dài quá mức. Vì vậy, ông đã nghiên cứu và viết ra một chính sách khác để thay cho chính sách “Cộng sản thời chiến” đó là chính sách kinh tế mới - tiếng Anh “New Economic Policy” (NEP) - bước tiến của lý luận về kinh tế chính trị thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói riêng.
Từ mùa xuân năm 1921, V.I.Lênin đã khởi xướng cuộc cải cách đầu tiên về mô hình và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua NEP. Cần hiểu rằng, NEP không chỉ là một chính sách quản lý vĩ mô về kinh tế, mà còn là một cải cách có tính tổng thể về chủ nghĩa xã hội, gồm nhiều nội dung:
Một là, những bất hợp lý của “Chính sách cộng sản thời chiến” bị bãi bỏ, chế độ “trưng thu lương thực thừa” được thay bằng thuế lương thực với tư cách là “liệu pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất” để phát triển sản xuất. Việc trao đổi hàng hóa trên cơ sở của nguyên tắc thị trường được thừa nhận và phục hồi, quan hệ hàng - tiền là “đòn bẩy” kinh tế, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa thành thị với nông thôn. Lợi ích của người lao động được quan tâm và thực hiện, nông dân được phép mua bán và trao đổi lương thực “thừa” của mình…
Hai là, phát triển “chủ nghĩa tư bản nhà nước” - mắt xích “trung gian quan trọng để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Người nhận định: “Kinh tế nông dân, với tư cách là một nền kinh tế tiểu nông, không thể đứng vững được, nếu không có một sự tự do trao đổi nào đó, và không có những quan hệ tư bản chủ nghĩa gắn liền với tự do trao đổi đó.”(1). Tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản - một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, “chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó”. Và thái độ đúng đắn là “Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên”(2). V.I.Lênin đã đề xuất một số hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước như chế độ tô nhượng, chế độ hợp tác, chế độ đại lý thu mua, đại lý tiêu thụ, chế độ cho thuê…
Ba là, phải học tập và sử dụng những giá trị văn minh nhân loại được tạo ra từ chủ nghĩa tư bản; kiên quyết phản đối việc “đem chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa xã hội”. Theo V.I.Lênin, ở một nước kinh tế lạc hậu thì giải pháp hiện thực để có được kinh nghiệm, tri thức quản lý hiện đại là học hỏi bằng việc thuê và trả lương cao cho chuyên gia tư sản. V.I.Lênin cho rằng, không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm tổ chức quản lý, thì không thể nào chuyển lên xây dựng chủ nghĩa xã hội được.
Bốn là, chuyển trọng tâm của cách mạng sang tổ chức và phát triển văn hóa. V.I.Lênin viết: “Chúng ta buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản. Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ: Trước đây… đặt trọng tâm công tác của chúng ta vào đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính quyền... Ngày nay, trọng tâm ấy đã chuyển sang công tác hòa bình tổ chức “văn hóa”(3). Chủ nghĩa xã hội không thể ra đời từ “những cuộc xung phong” hay những sắc lệnh duy ý chí nữa, mà là tùy ở kết quả của việc có kết hợp được chính quyền Xô-viết với những tiến bộ mới nhất của chủ nghĩa tư bản. Những người cộng sản phải học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý xã hội; sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, giáo dục; học cách làm ăn, buôn bán… Nói chung là tất cả những giá trị, những kinh nghiệm hợp lý mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản để xây dựng xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là, củng cố chính quyền Xô-viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức với biện pháp kinh tế để xây dựng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những quan niệm mới mẻ và đúng đắn của NEP đã được thực tiễn xác nhận. Nước Nga Xô-viết chỉ trong một thời gian ngắn đã có nhiều chuyển biến tích cực: Từ năm 1922, thành thị đã có đủ lương thực - thực phẩm, năm 1925 sản xuất nông nghiệp đạt 87%; công nghiệp đạt 75% sản lượng của năm 1913; đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt, chính trị ổn định, khối liên minh công nông được củng cố, phát triển...
Ở giai đoạn NEP, tư duy về xã hội xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đã “lùi một bước để tiến hai bước”. Bước lùi trên thực tiễn thực chất lại là bước tiến của tư duy: Từ “quá độ trực tiếp” (kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước Xô-Viết nắm giữ toàn bộ tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, phân phối trực tiếp bằng hiện vật…) sang “quá độ gián tiếp” với những bước đi phù hợp để xây dựng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chấp nhận quan hệ sản xuất có tính chất đa dạng trên cơ sở của sản xuất hàng hóa - thị trường để phát triển lực lượng sản xuất là bước tiến đúng đắn của tư duy từ NEP.
* NEP với đổi mới lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vào những năm 1989 - 1991, sự sụp đổ khá nhanh và mang tính hàng loạt của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đặt ra nhiều tình huống với thực tiễn và lý luận xây dựng Liên Xô. Một tình huống tương tự như cuộc khủng hoảng của mô hình “Chủ nghĩa cộng sản thời chiến” ở nước Nga trước đây lại tái diễn, và lại một lần nữa, tư duy mới của V.I.Lênin từ mô hình NEP lại gợi mở cho những người xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự bất cập của mô hình cũ và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp, bao tiêu và “phi thị trường” đã rõ, và cần phải đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội.
Khi đổi mới thì tư duy chủ nghĩa xã hội là phát triển sản xuất, là tạo điều kiện mới để “tăng thật nhanh sức sản xuất lên” thì hướng của tư duy sẽ tập trung vào khuyến khích mọi thành phần kinh tế đều được tạo cơ hội phát triển. Từ đó mới tạo ra cơ sở vật chất cho công bằng trong sự đầy đủ, giàu có, để cho “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và có một cuộc sống hạnh phúc” như tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước hết là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…” có nghĩa là Nhân dân được làm ăn và làm giàu (ở trình độ hiện nay, phổ biến là kinh tế tư nhân). Theo đó, Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của Nhân dân, Nhà nước kiến tạo thể chế cho Nhân dân làm giàu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một quan niệm rất “Đúng quy luật, thuận lòng dân và hợp thời đại” (Hồ Chí Minh).
Cơ chế này xuất phát từ nguyên lý rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình vừa mang tính tất yếu về kinh tế, vừa mang tính chủ động tự giác về chính trị - xã hội. Mọi hoạt động xây dựng chủ nghĩa xã hội đều xuất phát từ vai trò lãnh đạo, tổ chức của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước. Theo đó, sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân hàng đầu cho những thành công cũng như thất bại của cách mạng. Đảng lãnh đạo trước hết bằng đường lối, chủ trương, chính sách - là những vấn đề liên quan trực tiếp đến năng lực tư duy chiến lược. Vì vậy, khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới được chọn là đổi mới tư duy, trước tiên là tư duy chiến lược về chủ nghĩa xã hội.
* NEP với đổi mới tư duy về kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam những năm 80 của thế kỷ XX là, giải quyết tình trạng trì trệ và khủng hoảng kinh tế - xã hội, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Bài học mà V.I.Lênin để lại từ NEP là phải bắt đầu từ khâu cơ bản nhất - quan niệm lại cho đúng về chủ nghĩa xã hội. Nếu như NEP trước kia đã “thay đổi căn bản quan điểm về CNXH” ở nước Nga Xô-viết, thì quan niệm lại cho đúng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ là nhiệm vụ thực tiễn đặt ra cho tư duy lý luận.
Hạn chế lớn nhất trong tư duy kinh tế cũ là không chấp nhận sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường; chưa phân định rõ sở hữu tư nhân với sở hữu tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường với tư cách là một trình độ của sản xuất hàng hóa với kinh tế thị trường là đặc trưng của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Người ta lo ngại rằng, đó sẽ là những nhân tố gây bất công xã hội, gây rối ren kinh tế. Và tốt nhất là để cho vai trò của nhà nước bao trùm toàn bộ cả về sở hữu, quản lý và phân phối... Hệ quả là, sản xuất, nhu cầu phát triển của sức sản xuất chưa được xem trọng.
Từ tư duy như vậy, cho nên việc vận dụng kinh tế thị trường vào quá trình sản xuất, trao đổi và tiêu dùng là bước tiến lớn lao và có thể xem là tiêu biểu nhất trên lĩnh vực đổi mới tư duy kinh tế. Nhất là vận dụng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư duy này đã vận động từ chỗ kỳ thị kinh tế thị trường, đến việc coi nó như một yếu tố mà kế hoạch hóa cần tham khảo, so sánh, đối chiếu. Rõ ràng, sau đó nền kinh tế nước ta coi thị trường là một cơ chế để quản lý và đến nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là mô hình kinh tế tổng quát của đất nước. Chính những tư tưởng của V.I.Lênin về NEP đã tiếp sức và làm thành một trong những cơ sở lý luận cho đổi mới tư duy về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tóm lại, NEP của V.I.Lênin còn là “bảo bối” để hỗ trợ tinh thần cho giới lý luận Việt Nam về vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định phương hướng phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ quá độ là: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(8). Định hướng đó thể hiện tư duy biện chứng, cách mạng của người cộng sản, bảo đảm cho thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo
(1) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 43, tr. 376
(2) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 43, tr. 276(5) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 45, tr. 428
(3) PGS, TS. Tô Huy Rứa… (đồng chủ biên), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 116
(4) ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
ThS. Trần Văn Hòa
Phó Trưởng Khoa lý luận cơ sở