Các nguồn lực kinh tế Bến Tre: Thực trạng, thách thức và cơ hội

Trong mọi giai đoạn phát triển, các nguồn lực kinh tế đóng vai trò quan trọng để tạo ra của cải. Việc phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này, kết hợp với thể chế, chính sách và công nghệ, là yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển bền vững. Bến Tre có tiềm năng phát triển kinh tế biển, nông nghiệp công nghệ cao và du lịch sinh thái. Thời gian qua, tỉnh đã khai thác tốt các nguồn lực kinh tế, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống người dân. Tuy nhiên, trước những tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ và hạn chế trong ứng dụng công nghệ,... là những thách thức không nhỏ cho hành trình bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Bài viết tập trung phân tích thực trạng, chỉ ra những thách thức và cơ hội hiện thực hoá mục tiêu xây dựng, phát triển tỉnh nhà phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Một số vấn đề chung về các nguồn lực kinh tế

1. Trong kinh tế học cổ điển, nguồn lực kinh tế (hay còn gọi là yếu tố sản xuất) là các yếu tố đầu vào, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Các nguồn lực kinh tế được chia thành các nhóm sau:

- Tài nguyên thiên nhiên (Natural Resource): Bao gồm các tài nguyên sinh vật (gồm các loài động thực vật), đất, rừng, khoáng sản và tài nguyên năng lượng (bao gồm các nguồn năng lượng như gió, nước, mặt trời, dầu mỏ, than đá,...), được sử dụng để phục vụ sản xuất và đời sống.

- Lao động (Labor): Bao gồm sức lao động của con người, cả thể chất lẫn trí tuệ và kỹ năng, được sử dụng trong quá trình sản xuất (ví dụ: Công nhân, kỹ sư, nhà quản lý,...).

- Tư bản (Capital): Bao gồm các công cụ, máy móc, nhà xưởng, công nghệ và các nguồn lực tài chính được sử dụng để sản xuất.

Các nguồn lực kinh tế này có đặc điểm:

- Tính khan hiếm: Các nguồn lực kinh tế có giới hạn, không đủ để đáp ứng mọi nhu cầu của con người, cho nên, trong quá trình khai thác, sử dụng phải lựa chọn và phân bổ hợp lý.

- Tính thay thế và bổ sung: Một số nguồn lực có thể thay thế lẫn nhau (ví dụ: Máy móc, robot, AI thay thế lao động trong một số lĩnh vực), trong khi một số khác cần kết hợp để hiệu quả (như lao động và tư bản).

- Tính đa dụng: Một nguồn lực có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau (ví dụ: Đất đai có thể dùng để trồng trọt hoặc xây dựng).

2. Theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, nguồn lực của nền kinh tế bao gồm: Nhân lực (lao động, văn hoá, giáo dục), vật lực (tài nguyên thiên nhiên, môi trường, hạ tầng kinh tế - xã hội, cơ chế, chính sách,...) và tài lực (tài chính, tiền tệ,...)[1].

Trong giai đoạn phát triển mới hiện nay, khi đề cập đến vấn đề nguồn lực kinh tế, người ta thường chỉ ra 4 nhóm chính như sau: Lao động (nguồn nhân lực), vốn (bao gồm cả công nghệ), tài nguyên thiên nhiên và kỹ năng quản lý/khởi nghiệp(Entrepreneurship).

Kỹ năng quản lý/khởi nghiệp được xem là nguồn lực có vai trò quan trọng trong kỷ nguyên phát triển mới. Đó là khả năng tổ chức, đổi mới, kết hợp các nguồn lực lao động, tư bản, đất đai để tạo ra hàng hóa và dịch vụ. Người khởi nghiệp chịu trách nhiệm đưa ra quyết định, chấp nhận rủi ro và đổi mới. Bên cạnh đó, thể chế và chính sách là yếu tố đặc biệt quan trọng, nó giữ vai trò kiến tạo môi trường thuận lợi để sử dụng hiệu quả các nguồn lực trên.

Các nguồn lực kinh tế ở Bến Tre: Thực trạng, thách thức và cơ hội

1. Nguồn tài nguyên thiên nhiên

(1) Thực trạng: Bến Tre tiềm năng lớn về tài nguyên thiên nhiên, thuận lợi phát triển kinh tế biển, nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái và năng lượng tái tạo,...

- Đất đai: Bến Tre có diện tích tự nhiên 2.379,70 km²[2], đất nông nghiệp là 176.854 ha (chiếm hơn 74%), trong đó đất trồng dừa với 79.697 ha (chiếm 45% diện tích đất nông nghiệp), đứng đầu cả nước về diện tích và sản lượng[3]. Dừa có đóng góp lớn vào xuất khẩu, đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 500 triệu USD/năm[4].

- Nguồn nước và biển: Bến Tre có 65 km đường bờ biển và mạng lưới sông ngòi chằng chịt dài gần 6.000 km, thuận lợi phát triển giao thông thuỷ, nuôi và đánh bắt thủy sản. Diện tích nuôi thủy sản đạt gần 47.000 ha, sản lượng hơn 313.000 tấn, trong đó nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao 4.100 ha, năng suất nuôi đạt khoảng 60-70 tấn/ha[3].

- Khoáng sản: Trữ lượng cát lòng sông khá lớn. Theo quy hoạch đến năm 2030, có 19 khu vực thăm dò, khai thác cát san lấp; đến năm 2050, có 17 vùng dự trữ, với tổng diện tích khoảng 3.890 ha[5]. Năm 2024, đã tổ chức đấu giá 03 mỏ cát tăng thu hơn 488 tỷ đồng cho ngân sách tỉnh.

- Rừng: Tỷ lệ che phủ rừng đạt 1,80%. Diện tích rừng đặc dụng khoảng 2.413 ha, rừng phòng hộ khoảng 6.097 ha, rừng sản xuất khoảng 1.163 ha, có vai trò chống xói lở và phát triển du lịch sinh thái[5].

- Khí hậu: Khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, chia thành mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau) và mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11). Đây là điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp và du lịch[6].

(2) Thách thức: Biến đổi khí hậu diễn biến khó lường, vấn đề ô nhiễm môi trường (rác thải nhựa, chất thải và nước thải các khu vực chăn nuôi, nhất là nuôi tôm công nghiệp) đã và đang là những thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của tỉnh.

Biến đổi khí hậu: Xâm nhập mặn và sụt lún đất, xói lở bờ biển, sạt lở bờ sông ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái ven biển và đời sống người dân sinh sống ven sông. Năm 2020, nước mặn xâm nhập sâu đến 60-80 km, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nông nghiệp, ước tính hơn 1.400 tỷ đồng, với 12.350 ha cây ăn trái bị ảnh hưởng[7].

Ô nhiễm môi trường: Rác thải nhựa tại các khu vực sông và ven biển là vấn đề lớn, với 94% rác thải thu gom là nhựa. Nuôi trồng thủy sản công nghiệp gây ô nhiễm nguồn nước nếu không được quản lý chặt chẽ.

(3) Cơ hội: Để thực hiện thắng lợi mục tiêu “Đến năm 2035: Khai thác hiệu quả thị trường quyền sử dụng đất, đảm bảo khoảng 99% diện tích đất tự nhiên được đưa vào khai thác, sử dụng; kiểm soát chặt chẽ ô nhiễm nguồn nước...”[8]; thời gian tới, Bến Tre cần tận dụng tốt các cơ hội sau:

- Phát triển kinh tế biển bền vững theo Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị, tạo cơ hội khai thác hiệu quả tài nguyên biển, đồng thời bảo vệ môi trường và chủ quyền quốc gia. Phấn đấu đến năm 2030, trở thành tỉnh dẫn đầu về kinh tế biển tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long và nằm trong nhóm khá các tỉnh ven biển. Phát triển khoảng 5.000 ha nuôi tôm biển ứng dụng công nghệ cao. Phát triển mạnh du lịch, thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh[9].

- Phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới, đặc biệt là điện gió, với 19/22 dự án đã được phê duyệt tại Quy hoạch điện VII (1.007 MW) và 3/22 dự án được phê duyệt trong Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII (93 MW). Đến 2025, phát triển ít nhất 1.500 MW, và đến năm 2030, hình thành trung tâm năng lượng sạch tỉnh Bến Tre, hoàn thành đầu tư các dự án điện ngoài khơi (điện gió, điện khí,...), đưa vào vận hành ít nhất 3.000MW[9].

- Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu gắn với phát triển chuỗi giá trị các sản phẩm nông nghiệp. Nâng cao tỷ lệ che phủ rừng. Phát triển rừng gắn với nuôi tôm quảng canh và du lịch sinh thái, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát triển kinh tế xanh và bảo vệ môi trường.

- Chú trọng điều tra, đánh giá đầy đủ tài nguyên đất, cát, nước ngọt; xây dựng phương án quản lý, khai thác hợp lý, bền vững, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Lập hành lang bảo vệ nguồn tài nguyên nước và phòng, chống ô nhiễm, bảo đảm nguồn nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt.

- Khai thác, phát huy vị trí địa lý chiến lược gần Thành phố Hồ Chí Minh (cách 85 km) để phát triển logistics và xuất khẩu thủy sản, nông sản qua cảng biển và đường thủy.

2. Nguồn lực con người

(1) Thực trạng: So với các tỉnh thành khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre có thế mạnh về nguồn lao động.

- Lao động: Tính đến ngày 24/12/2024, dân số Bến Tre có hơn 1,6 triệu người[3]. Theo thống kê giai đoạn 2019-2020, lực lượng lao động chiếm hơn 63%, trong đó lao động nông nghiệp khoảng 44%[10]. Năm 2024, đã giải quyết việc làm cho 21.007 lao động; trong đó, có 2.511 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Tính chung cả giai đoạn 2021-2024, đã giải quyết việc làm cho 83.608 lao động; trong đó, có 6.819 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng, đạt 68,19% chỉ tiêu kế hoạch 2021-2025 (10.000 lao động)[11]. Lao động qua đào tạo ước đạt 70% vào cuối năm 2025, cao hơn mức trung bình khu vực đồng bằng sông Cửu Long; tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 40%[12].

- Trí tuệ và sáng tạo: Tính đến năm 2020, Bến Tre có 50 tiến sĩ, 1.251 thạc sĩ, 61.199 đại học[10]. Chỉ số ĐMST cấp tỉnh (PII) 2024 Bến Tre xếp hạng 3 khu vực đồng bằng sông Cửu Long và top 30 cả nước. Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp [12]. Bến Tre tổ chức nhiều cuộc thi sáng tạo, đã có 34.600 sản phẩm dự thi (bình quân mỗi năm có 3.465 sản phẩm dự thi), đạt 13.407 giải[13].

(2) Thách thức: Theo dự báo, đến năm 2030, Bến Tre cần phải bổ sung khoảng 834.100 lao động. Tính riêng lĩnh vực nông nghiệp, cần khoảng 1.000 lao động có kiến thức về công nghệ sinh học, trong đó, cần 20% có trình độ đại học trở lên để phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Để phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, Bến Tre cần khoảng 160.000 lao động cho 5.000 doanh nghiệp; các khu công nghiệp cần khoảng 60.000 lao động[10]. Bên cạnh đó, để phát triển kinh tế hợp tác và các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội khác, cũng cần nguồn nhân lực khá lớn, trong khi tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở cả 3 khu vực kinh tế của tỉnh còn khá cao. Tính đến năm 2020, Khu vực I co 44,96%; Khu vực II 42,4% và Khu vực III 40,22%. Ngoài ra, tình trạng di cư lao động trẻ đã và đang là nguy cơ gây thiếu hụt lao động tại chỗ. Hàng năm có khoảng 6.000-7.000 lao động trẻ tìm kiếm việc làm ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh công nghiệp (Bình Dương, Đồng Nai)[10].

(3) Cơ hội: Để thực hiện tốt mục tiêu “Đến năm 2035: Tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản dưới 35% tổng số lao động của tỉnh; phát triển năng lực đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng nguồn nhân lực và chỉ số phát triển con người; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ”[8], chúng ta cần tập trung nắm bắt và hiện thực hoá các cơ hội:

- Triển khai thực hiện tốt Quyết định số 899/QĐ-TTg, ngày 31/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Nghị định số 179/2024/NĐ-CP (31/12/2024) về chính sách thu hút, trọng dụng người có tài năng.

- Tăng cường đào tạo theo nhu cầu thị trường và tăng cường giám sát chất lượng đào tạo. Hợp tác chặt chẽ với các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh và khu vực đồng bằng sông Cửu Long để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nhân lực trẻ. Đẩy mạnh phân luồng học sinh, xã hội hóa giáo dục và dạy nghề. Phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong đào tạo nhân lực, bảo đảm chất lượng giáo dục, tránh lãng phí và nâng cao hiệu quả đầu tư vào giáo dục. Phát triển nhân lực gắn với quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, đáp ứng nhu cầu cụ thể của các ngành kinh tế trọng điểm như nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế biển và du lịch. Phát triển thị trường lao động và nâng cao năng lực các trung tâm dịch vụ việc làm. Đổi mới phương thức quản lý, sử dụng, đánh giá và đào tạo nguồn nhân lực, cải thiện môi trường làm việc.

- Tập trung phát triển hệ thống thông tin đại chúng và dịch vụ văn hóa. Việc mở rộng cơ hội tiếp cận thông tin, văn hóa và giải trí, giúp cải thiện đời sống tinh thần, tái tạo năng lực làm việc và khả năng sáng tạo của người lao động. Đây là cơ hội để xây dựng lực lượng lao động năng động, sáng tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

3. Nguồn lực vốn

(1) Thực trạng:

- Tài chính và tiền tệ: Năm 2024, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 6.632,9 tỷ đồng. Tính chung cả giai đoạn 2021-2024, thu ngân sách đạt 23.588,6 tỷ đồng, đạt 67,4% (chỉ tiêu 2021-2025 là 35.000-40.000 tỷ). Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội huy động đạt 18.690 tỷ đồng, đạt 79,53% kế hoạch năm; giai đoạn 2021-2024 đạt 84.549 tỷ đồng, đạt 65,04% (chỉ tiêu 2021-2025 là 130.000-140.000 tỷ đồng). Thu hút đầu tư trong nước đạt 1.925,49 tỷ đồng và FDI thu hút được 20,31 triệu USD[11].

- Cơ sở vật chất - kỹ thuật: Hạ tầng giao thông được tập trung đầu tư hoàn thiện. Các công trình, dự án trọng điểm đã hoàn thành, đưa vào khai thác, đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá. Cầu Rạch Miễu 2 đã hợp long vào ngày 19/4/2025, dự kiến thông xe vào tháng 8/2025. Tuyến đường gom vào cầu Rạch Miễu 2 cũng đã thông xe vào ngày 27/4/2025. Tỉnh đang tập trung thực hiện thủ tục đầu tư Tuyến đường bộ ven biển. Dự án cầu Ba Lai 8 trên tuyến, có tổng mức đầu tư 2.255 tỷ đồng[11]. Các cảng cá cũng đã hoàn thành đưa vào khai thác, đặc biệt là Tân cảng Giao Long có năng lực tiếp nhận tàu trọng tải toàn phần từ 2.200 tấn hoặc sà lan có sức chở đến 128 container[14].

- Khoa học và công nghệ: Giai đoạn 2020-2025, đã triển khai 125 nhiệm vụ khoa học và công nghệ; trong đó, có 9 nhiệm vụ cấp nhà nước, 110 nhiệm vụ cấp tỉnh, 6 nhiệm vụ cấp cơ sở; đã tạo được 6 giống mới, 147 mô hình, 116 quy trình và đề xuất hơn 200 giải pháp, 8 đối tượng được lập bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và 28 sản phẩm đã được thương mại. Tỷ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu của các đề tài kỹ thuật vào sản xuất từ 85%-95%. Doanh nghiệp KH&CN tăng 06 lên 11, tổ chức KH&CN tăng từ 13 lên 16; 02 doanh nghiệp đạt Giải thưởng Chất lượng quốc gia. Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 02% GRDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm 60%; bố trí ít nhất 02% tổng chi ngân sách hàng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người/vạn dân[12].

(2) Thách thức: Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư hoàn thiện và phát triển kết cấu hạ tầng (giao thông, đê biển, thủy lợi, cấp nước,...) là rất lớn, nhưng nguồn vốn đầu tư công còn hạn chế, phụ thuộc nhiều vào Trung ương. Khả năng huy động vốn tư nhân cho các dự án lớn (như điện gió, du lịch sinh thái) còn thấp do thiếu cơ chế hấp dẫn. Bên cạnh đó, chúng ta chưa có các trung tâm nghiên cứu lớn tại địa phương. Chuyển đổi số trong nông nghiệp và du lịch còn chậm do thiếu nhân lực công nghệ cao,...

(3) Cơ hội: Để bảo đảm mục tiêu “Đến năm 2035: Tỷ lệ chi đầu tư phát triển đạt 30% trong tổng chi cân đối ngân sách địa phương. Phấn đấu thu ngân sách nhà nước (nội địa) tăng bình quân hàng năm 13%, các khoản thu từ đất đai chiếm 7% thu ngân sách nhà nước. Huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội từ 38-39% GRDP”[8]; thời gian tới, chúng ta cần phải nắm bắt, khai thác tốt các cơ hội sau:

- Tận dụng các hiệp định thương mại tự do (EVFTA, RCEP) để thu hút FDI vào chế biến dừa và thủy sản. Phát triển mô hình hợp tác công tư (PPP) cho các dự án hạ tầng, ưu tiên đầu tư công trình trọng điểm như: Các dự án trên Tuyến đường động lực ven biển, Khu công nghiệp Phú Thuận, các dự án đô thị và hạ tầng logistics ven biển,... Tích cực phối hợp triển khai các hoạt động hợp tác, liên kết vùng, tiểu vùng và Chương trình hợp tác phát triển kinh tế - xã hội với Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn đến năm 2025. Tăng cường các hoạt động kinh tế đối ngoại, xúc tiến đầu tư để huy động nguồn lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

- Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng chính sách ưu đãi, thu hút nguồn nhân lực, vật lực, tài lực để khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Tăng cường kỷ luật tài chính - ngân sách, nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu. Giám sát chặt chẽ đầu tư công, bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn vốn, tập trung nguồn lực cho các dự án có hiệu quả cao. Quản lý tín dụng và xử lý tốt nợ xấu, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn vay, đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống tín dụng đen, quản lý ngoại hội và kinh doanh vàng.

- Phát huy vai trò huy động nguồn tài lực của xã hội thông qua hệ thống các chi nhánh ngân hàng thương mại và các quỹ tín dụng cho đầu tư phát triển. Huy động vốn từ các quỹ quốc tế, như Quỹ Tài sản Carbon Biến đổi (TCAF), với cam kết 40 triệu USD cho chương trình lúa gạo thấp carbon ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhân rộng các mô hình nông nghiệp thông minh, như dự án lúa gạo thấp carbon, để tận dụng xu hướng phát triển xanh toàn cầu.

- Phát huy vai trò các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản; đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án sử dụng vốn NSNN; ưu tiên nguồn vốn đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng theo định hướng phát triển về hướng Đông, đặc biệt là đẩy nhanh tiến độ triển khai Tuyến đường bộ ven biển để phát triển mạnh kinh tế biển, công nghiệp, đô thị, du lịch, năng lượng mới... Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và phương pháp quản lý hiện đại trong quản lý hạ tầng, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công, giảm lãng phí và tăng tính minh bạch trong quản lý đầu tư.

- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình “Đồng Khởi khởi nghiệp và Phát triển doanh nghiệp”; chính sách đặc thù khuyến khích, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tỉnh Bến Tre; kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số.

4. Nguồn lực thể chế và chính sách

(1) Thực trạng: Ngay sau Đại hội XI Đảng bộ tỉnh, Tỉnh uỷ đã ban hành nhiều chủ trương chính sách phát triển kinh tế, trong đó, có 1 số Nghị quyết, Chương trình, Đề án có vai trò then chốt: Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 20/10/2020 về chuyển đổi số tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn đến năm 2030; ngày 29/01/2021, ban hành một loạt nghị quyết, chương trình, đề án: Nghị quyết số 04-NQ/TU phát triển Bến Tre về hướng Đông, Nghị quyết 06-NQ/TU về phát triển đô thị, Nghị quyết số 07-NQ/TU về xây dựng vùng sản xuất tập trung, gắn phát triển chuỗi giá trị nhóm sản phẩm nông nghiệp chủ lực, Chương trình số 08-CTr/TU về phát triển công nghiệp chủ lực, lực lượng doanh nghiệp, Đề án số 03-ĐA/TU về huy động nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, Đề án số 04-ĐA/TUvề phát triển khoa học và công nghệ, Đề án số 05-ĐA/TU về đầu tư xây dựng, phát triển hạ tầng giao thông và dịch vụ logistics phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đề án số 06-ĐA/TU về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn 2030...

Bên cạnh đó là các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (khuyến công, giảm thuế sử dụng đất để thu hút đầu tư,...), chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP),... Tỉnh đã triển khai các gói tín dụng ưu đãi cho nông dân (khuyến nông, quỹ hỗ trợ phụ nữ, nông dân phát triển sản xuất, xoá nghèo bền vững,...),... Đặc biệt, Chương trình “Đồng Khởi khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp” (2021-2025), là một đột phá về tư duy phát triển và kích hoạt nguồn lực kỹ năng quản lý/khởi nghiệp của địa phương. Chương trình đã thể hiện sự đổi mới trong cách tiếp cận phát triển kinh tế, từ việc thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, đào tạo kỹ năng quản lý, đến hỗ trợ vốn và cải thiện môi trường đầu tư.

Để hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hỗ trợ nông dân thực hiện chuyển đổi mô hình sản xuất, phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông sản theo hướng hiện đại, đạt chuẩn (VietGAP và GlobalGAP), HĐND tỉnh đã ban hành một số nghị quyết quan trọng: Nghị quyết số 25/2021/NQ-HĐND (08/12/2021) về việc quy định chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2021-2025; Nghị quyết số 08/2022/NQ-HĐND (13/7/2022) về mức chi thực hiện các nhiệm vụ địa phương thuộc Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Bến Tre; Nghị quyết số 09/2023/NQ-HĐND (05/7/2023) quy định một số Chính sách đặc thù khuyến khích, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, doanh nghiệp dẫn đầu trên địa bàn tỉnh Bến Tre; Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐND (24/4/2024) quy định chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị đối với dự án, kế hoạch liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và hỗ trợ phát triển sản xuất cộng đồng thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh Bến Tre...

Có thể thấy, đó là quyết tâm cao, nỗ lực lớn để hiện thực hoá khát vọng phát triển tỉnh Bến Tre trong kỷ nguyên mới.

(2) Thách thức: Trong bối cảnh tình hình mới, nạn tham nhũng và quan liêu vẫn tồn tại, là một trong những thách thức làm chậm tiến độ một số dự án lớn (như việc lấp đầy khu, cụm công nghiệp, các dự án năng lượng tái tạo,...). Bên cạnh đó, hiệu quả thực thi chính sách chưa đồng đều, đặc biệt trong quản lý môi trường và cấp phép đầu tư; vấn đề hợp tác, liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long và với các thành phố lớn để phát triển logistics và chuỗi giá trị nông sản cũng là những thách thức lớn cần phải đặc biệt quan tâm.

(3) Cơ hội: Thời gian tới, Bến Tre cần nắm bắt và biến các cơ hội thành hiện thực để phát huy tốt nguồn lực thể chế và chính sách:

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, tạo đột phá thu hút vốn đầu tư; thu hút, nâng cao tỷ trọng vốn FDI. Tập trung phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ, chuyển đổi số. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư; coi trọng công tác xúc tiến đầu tư tại chỗ để tạo sự hấp dẫn, thu hút, mời gọi các nhà đầu tư mới.

- Đẩy mạnh liên kết, hợp tác (thực chất và hiệu quả) với các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh và các trung tâm đô thị lớn các tỉnh trong quá trình xúc tiến đầu tư, huy động và phân bổ nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế biển. Tận dụng các chính sách quốc gia về phát triển bền vững và năng lượng xanh.

Tóm lại, sau 40 năm đổi mới, hội nhập, phát triển, Bến Tre đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu (trước 1986), Bến Tre trở thành một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân 6,41% giai đoạn 2015-2020, xếp thứ 10/13 khu vực đồng bằng sông Cửu Long và thứ 48/63 trong cả nước. Công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng, đô thị và hạ tầng giao thông, thương mại, dịch vụ phát triển khá. Kinh tế biển, nông nghiệp và du lịch sinh thái từng bước là các trụ cột chính.

Trong giai đoạn phát triển mới, Bến Tre có nhiều cơ hội để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế biển bền vững, du lịch sinh thái và hạ tầng đồng bộ thông qua hệ thống cơ chế chính sách, đầu tư công tư, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên môn hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động và hội nhập quốc tế; thu hút nhân tài và nâng cao năng suất lao động thông qua chính sách lương, môi trường làm việc và đào tạo nghề; gia tăng nguồn thu ngân sách, ổn định nền kinh tế địa phương, thu hút đầu tư tư nhân và phát triển thị trường tài chính minh bạch, hiệu quả. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trở thành tỉnh phát triển khá của vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước vào năm 2050, chúng ta cần liên kết, nắm bắt triệt để các cơ hội, phát huy mạnh mẽ vai trò các nguồn lực kinh tế, đồng thời giải quyết các thách thức về biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, nâng cao kỹ năng lao động và cải thiện hạ tầng, để duy trì tăng trưởng bền vững. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “Chương trình Đồng khởi khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp”, giải pháp quan trọng để phát triển mạnh kinh tế tư nhân, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng theo Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.

 

Chú thích

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 15/01/2025 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế

[2] Bộ Tài nguyên và Môi trường: Quyết định số 3411/QĐ-BTNMT, ngày 24/10/2024 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2023.

[3] UBND tỉnh Vĩnh Long: Đề án số 3138/ĐA-UBND, ngày 28/4/2025 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về sắp sếp các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long; https://nhandan.vn/chuoi-gia-tri-dua-post855922.html

[4]https://cafef.vn/ben-tre-thu-hon-nua-ty-do-la-moi-nam-tu-dua-188240819184334842.chn

[5] Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 1399/QĐ-TTg, ngày 17/11/2023 phê duyệt Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

[6]https://bentre.gov.vn/Lists/gioithieu/DispForm.aspx?itemid=910

[7]https://thanhnien.vn/ben-tre-thiet-hai-hon-1400-ti-dong-do-xam-nhap-man-185963735.htm

[8] Tỉnh uỷ Bến Tre: Chương trình hành động số 41-CTr/TU, ngày 17/4/2019 thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TWcủa Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế.

[9] Tỉnh uỷ Bến Tre: Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 29/01/2021 phát triển Bến Tre về hướng Đông giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn đến năm 2030.

[10] Tỉnh uỷ Bến Tre: Đề án số 06-ĐA/TU, ngày 29/01/2021 về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển  kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn 2030.

[11] Ban Chỉ đạo Đề án 03: Báo cáo số 38/BC-TCT, ngày 17/01/2025 về tình hình và kết quả thực hiện Đề án số 03-ĐA/TU về huy động nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 (năm 2024).

[12] UBND tỉnh Bến Tre: Báo cáo số 199/BC-UBND, ngày 25/3/2025  về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 và nhiệm vụ, giải pháp thực hiện giai đoạn 2026-2030.

[13] https://baodongkhoi.vn/hoi-nghi-tong-ket-15-nam-thuc-hien-chi-thi-so-42-ct-tw-cua-bo-chinh-tri-28052025-a147320.html

[14] https://www.sggp.org.vn/ben-tre-thanh-lap-don-bien-phong-cua-khau-cang-giao-long-post752822.html 

Ngô Bảo - Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ

CHUYÊN ĐỀ

hcm

Thư viện ảnh