Kỷ niệm 114 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3/1910-08/3/2024), 1983 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3 và 77 năm Ngày thành lập Trường Đảng tỉnh Bến Tre (Trường Chính trị Bến Tre) (07/3/1947-07/3/2024)!

Thứ sáu, 29 Tháng 3, 2024 - 11:19

Những thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện và thúc đẩy quyền con người

Nguyễn Thị Ninh
Phòng Đào tạo
 
Trong suốt chiều dài lịch sử, con người luôn đấu tranh nhằm giải phóng con người, xây dựng xã hội tiến bộ vì con người. Thực tiễn bảo đảm quyền con người ở mỗi quốc gia là nỗ lực đóng góp chung đối với nhân loại nhằm bảo vệ giá trị thiêng liêng của quyền con người. Trải qua nhiều đau thương, hi sinh, mất mát trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhằm giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân nên kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Những thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện và thúc đẩy quyền con người đã được nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận.
Quyền con người là một vấn đề rộng lớn, phức tạp nên có những cách hiểu khác nhau. Kế thừa nhận thức chung và trên quan điểm Mácxít, có thể hiểu: “Quyền con người là quyền của tất cả mọi người, đó là những nhu cầu xuất phát từ nhân phẩm vốn có của con người, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ”.[1]
Trên phạm vi toàn thế giới, quyền con người là chủ đề lớn của mọi quốc gia. Đề cao pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người đã được minh chứng bởi sự ra đời của nhiều văn kiện nhân quyền như: Bộ luật về các quyền của Anh (1689), Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789) … Tuy nhiên, quyền con người chỉ thực sự được quan tâm sau khi Liên hợp quốc ra đời (1945). Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948 tại Paris, Pháp, là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người. Tinh thần của bản Tuyên ngôn là dùng truyền đạt và giáo dục để thúc đẩy các quốc gia thành viên Liên hợp quốc tôn trọng các quyền con người được đưa ra trong Tuyên ngôn.
Trong khi đó, tại Việt Nam, từ trong những năm đấu tranh gian khổ giành độc lập, tự do, Cương lĩnh năm 1930 và các văn kiện của Đảng đều đã đề cập các nội dung quyền con người. Trên cơ sở tố cáo tội ác vi phạm nghiêm trọng nhân quyền của chủ nghĩa thực dân, phong kiến, Đảng hướng cuộc đấu tranh của dân tộc theo các mục tiêu cao cả là tự do, hạnh phúc cho mọi người dân Việt Nam. Đó chính là nội hàm cao nhất của quyền con người. Trên cơ sở truyền thống văn hóa quốc gia, nền tảng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời xuất phát từ mục tiêu cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng và các chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người đã được hình thành, bổ sung, nâng cao và từng bước hoàn thiện qua các giai đoạn.
Mọi nhu cầu về quyền con người nếu không được pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì không thể có bất cứ một quyền con người nào. C.Mác khẳng định pháp luật là “kinh thánh tự do của nhân dân”. Thông qua pháp luật, “nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền con người không chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức mà trở thành những quy tắc ứng xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội”[2]. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta coi việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý nghĩa then chốt đối với việc bảo đảm và phát triển quyền con người. 
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, một trong sáu vấn đề cấp bách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra là xây dựng Hiến pháp. Người chỉ ra rằng: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có một Hiến pháp. Nhân dân không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”[3]. Mặc dù trong điều kiện hết sức khó khăn của những ngày đầu giành được độc lập, Chính phủ lâm thời lúc đó vẫn tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa đầu tiên vào ngày 06/01/1946. Sau 10 tháng chuẩn bị tích cực, dưới sự chỉ đạo sâu sát của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 09/11/1946, Quốc hội Khóa I (kỳ họp thứ 2) chính thức thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, đó là Hiến pháp 1946. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các quyền tự do dân chủ của người dân Việt Nam được ghi nhận và bảo đảm: Quyền tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc (Điều 7), Quyền bầu cử và ứng cử (Điều 18)… Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 mà còn gắn liền với việc thiết lập cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, được thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy chính phủ từ Trung ương đến địa phương.
Kế thừa và phát triển các quy định, nguyên tắc của Hiến pháp 1946, các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và 2013 tiếp tục mở rộng, làm rõ nội dung nội dung quyền con người. Hiến pháp 1959 ghi nhận 21 điều về quyền con người, Hiến pháp 1980 có 29 điều, Hiến pháp 1992 có 34 điều. Đặc biệt, Hiến pháp 2013 có 36 điều, đã bổ sung, điều chỉnh thêm nhiều nội dung quan trọng nhằm tăng cường hơn nữa vai trò của các chủ thể có liên quan đến việc thực thi quyền con người ở Việt Nam, đồng thời bao quát khá đầy đủ các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá trong Bộ luật nhân quyền quốc tế[4]. Chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đưa lên vị trí trang trọng (Chương 2 của Hiến pháp), từ “Nhân dân” được viết hoa trong toàn bộ văn kiện. Hiến pháp 2013 ghi nhận thêm nhiều quyền như quyền sống, quyền không bị tra tấn, quyền sở hữu tư nhân, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm…Tất cả những quyền trên đã đáp ứng những nhu cầu mới nảy sinh về quyền con người trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Trong quá trình xây dựng và trước khi thông qua Hiến pháp, dự thảo các văn bản được công bố rộng rãi để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân và được chỉnh lý trên cơ sở các ý kiến đóng góp phù hợp. Bằng việc tham gia vào quá trình xây dựng hiến pháp, nhân dân đã thực hiện các quyền tự do, dân chủ của mình.
Trên cơ sở Hiến pháp, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng được hoàn thiện, khẳng định nhân dân là trung tâm của mọi hoạt động của Nhà nước, bảo đảm quyền con người là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đối mới. Nhà nước đã thông qua nhiều chương trình quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, triển khai nhiều chương trình kinh tế - xã hội lớn nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng các quyền con người của mọi người dân Việt Nam. Quốc hội đã thông qua hơn 300 luật, bao phủ hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và nhìn chung tương thích với những nguyên tắc, quy định của Luật Nhân quyền quốc tế như Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng, các chương trình dành cho các đối tượng dễ bị tổn thương như Chương trình 134, Chương trình 30a…
 Song song với công tác nội luật hoá, Nhà nước ta đang từng bước thực thi tổng thể những biện pháp về cải cách thể chế, cải cách hành chính và đặc biệt là cải cách hệ thống tư pháp nhằm thúc đẩy việc tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nâng cao nhận thức của người dân về các quyền con người. Qua đó, nhận thức về quyền con người của cán bộ từ trung ương đến địa phương cũng như của người dân được nâng cao rõ rệt.
Thực tiễn cho thấy, bảo đảm bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người được thực hiện. Thông qua Hiến pháp và các văn bản pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam được thể hiện đầy đủ nhất về phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; đồng thời làm sâu sắc hơn bản chất tiên phong, bản chất Nhân dân của Đảng.
Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là không ngừng nỗ lực để bảo đảm cho người dân được thụ hưởng đầy đủ các quyền con người. Chính vì vậy, song song với các nỗ lực bảo đảm quyền con người với các chủ trương, chính sách trong nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng và xây dựng, vì mục tiêu chung là bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. 
Việt Nam là thành viên của hầu hết các công ước quốc tế quan trọng của Liên hợp quốc về quyền con người[5]. Tham gia các công ước quốc tế, Việt Nam nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến xây dựng và đệ trình báo cáo quốc gia về việc thực thi các công ước. Đến nay, Việt Nam đã soạn thảo và đệ trình các báo cáo quốc gia lên các Ủy ban công ước, cụ thể: hai lần nộp báo cáo Công ước về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (1992, 2014), bốn lần nộp báo cáo Công ước về Quyền Trẻ em (1992, 2000, 2009, 2012) …
Những thành công đạt được trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ghi dấu ấn đối với bạn bè quốc tế. Mặc dù nền kinh tế còn khó khăn nhưng bảo đảm an sinh xã hội vẫn được Việt Nam duy trì, trong đó Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đạt kết quả tích cực: Tỉ lệ nghèo theo chuẩn quốc tế tại Việt Nam giảm mạnh và liên tục (Từ 58.1% năm 1993 xuống 28.9% năm 2002; 14.2% năm 2010, 8.4% năm 2014)[6]. Bên cạnh đó, thành công về bảo vệ quyền trẻ em, bình đẳng giới, bảo đảm quyền các nhóm xã hội dễ bị tổn thương…được Ủy ban theo dõi thực hiện Công ước và cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Việc Việt Nam hoàn thành hầu hết Các Mục tiêu Thiên niên kỷ được coi là tấm gương điển hình quốc tế. Bà Pretibha Mehta – Điều phối viên thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam đã nhận định rằng có rất ít quốc gia đạt được kết quả như Việt Nam và đây là kết quả của một quá trình phấn đấu liên tục, có hiệu quả với quyết tâm chính trị cao của Đảng, Nhà nước và đồng thời, bà cũng khẳng định tại Diễn đàn Các Đối tác Phát triển Việt Nam 2015 rằng: “Việt Nam hoàn toàn có khả năng trở thành tấm gương tương tự trong việc thực hiện Các Mục tiêu phát triển Bền vững”[7].
Dựa trên cơ sở bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, Việt Nam chủ động tham gia vào vào nhiều lĩnh vực hợp tác về quyền con người trong khuôn khổ các diễn đàn đa phương cũng như trong quan hệ song phương.
Việt Nam đã tham gia tích cực vào nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có các cơ quan nhân quyền thuộc Liên hợp quốc như Hội đồng Kinh tế - Xã hội nhiệm kỳ 1998-2000, Ủy ban nhân quyền nhiệm kỳ 2001-2003… Đặc biệt, với những thành tựu đã đạt được và uy tín trong lĩnh vực quyền con người, ngày 12/11/2013 với 184 phiếu thuận trên tổng số 192 phiếu, Việt Nam đã trúng cử với số phiếu cao nhất trong số 14 nước thành viên mới và lần đầu tiên trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016.  
Sự nghiêm túc và có trách nhiệm của Việt Nam được thể hiện trong việc tham gia phát biểu, thảo luận tại hàng trăm cuộc họp, xây dựng và thương lượng các nghị quyết, quyết định của Hội đồng nhân quyền. Việt Nam đã đóng góp vào quá trình xây dựng nghị quyết, quyết định của Hội đồng nhân quyền theo hướng ủng hộ cách tiếp cận cân bằng, toàn diện, đáp ứng quan tâm, lợi ích của các bên, hướng tới đồng thuận. Trên cơ sở lập trường lợi ích của các bên liên quan, Việt Nam luôn phản ứng kịp thời trước các sự kiện nóng về nhân quyền trên toàn cầu, tham gia những phiên họp khẩn cấp hay cuộc thảo luận về tình hình khủng hoảng di cư, chủ nghĩa cực đoan…
Hội đồng nhân quyền có nhiều cơ chế giúp việc, đặc biệt là cơ chế rà soát phổ quát định kỳ (UPR)[8]. Thái độ tích cực, nghiêm túc trong việc thực hiện cơ chế UPR thể hiện trước hết ở quá trình xây dựng báo cáo quốc gia một cách kỹ lưỡng, chi tiết với sự tham vấn rộng rãi của tất cả các bộ, ngành, các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội và các cơ quan Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Việt Nam lần đầu thực hiện cơ chế UPR vào tháng 5/2009 và chấp nhận 96/123 khuyến nghị. Tại phiên UPR lần thứ hai vào tháng 2/2014, Việt Nam chấp nhận 182/227 khuyến nghị. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành kế hoạch tổng thể để thực hiện các khuyến nghị. Nhiều bộ, ngành cũng đề ra các kế hoạch riêng về thực hiện khuyến nghị.
Dù mới chỉ là lần đầu tiên tham gia Hội đồng Nhân quyền nhưng Việt Nam luôn chủ động đưa ra các sáng kiến, quan tâm các đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội tại các quốc gia trên thế giới. Tại Khóa 31 (tháng 3/2016), Việt Nam phối hợp với Australia tổ chức sự kiện bên lề về bảo đảm quyền lao động của người khuyết tật. Tại khóa 32 Hội đồng nhân quyền (tháng 6/2016), Việt Nam cùng Bangladesh và Phillipines đồng tác giả Nghị quyết về tác động của Biến đổi khí hậu với quyền trẻ em (được thông qua bằng đồng thuận với hơn 110 nước đồng bảo trợ). Tại Khóa 33 (tháng 9/2016), Việt Nam phối hợp với Mỹ, Australia, Phillipines, Trung Quốc và Tổ chức di cư quốc tế (IOM) tổ chức sự kiện bên lề về nâng cao giáo dục trong phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em gái…Đến nay, Việt Nam là đồng tác giả của hơn 30 nghị quyết về các nội dung bảo đảm quyền con người (như bảo đảm quyền người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em, chống buôn bán người…) góp phần nâng cao nhận thức chung của thế giới về các giá trị quyền con người.
Với các hoạt động phong phú, tích cực như trên, nhiều quốc gia trên thế giới đã dành thiện cảm và ghi nhận Việt Nam là một thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm, cùng các nước xử lý thách thức chung của nhân loại trong lĩnh vực quyền con người. Nhìn lại ba năm đảm nhận vai trò thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, có thể thấy, Việt Nam đã có đóng góp thiết thực vào thúc đẩy đối thoại và hợp tác; tăng cường tính hiệu quả, minh bạch trong công việc của Hội đồng nhân quyền; đóng góp xây dựng giá trị chung của nhân loại về quyền con người. Thông qua việc tham gia Hội đồng Nhân quyền, tiếng nói, hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên tầm cao hơn. Ngoài ra, việc là thành viên Hội đồng Nhân quyền cũng giúp Việt Nam có thêm công cụ đấu tranh, phản bác những luận điệu, thông tin sai lệnh về tình hình nhân quyền trong nước; hỗ trợ thúc đẩy quan hệ song phương với các nước; thêm kinh nghiệm tham gia các cơ chế đa phương.
Ở tầm khu vực, Việt Nam chính là điều phối viên của ASEAN tại Hội đồng Nhân quyền. Trong vai trò này, Việt Nam rất tích cực trong việc điều phối lập trường của các nước ASEAN ở Hội đồng Nhân quyền. Khi có thông tin của cuộc họp các thành viên, Việt Nam sẽ trao đổi với các nước thành viên ASEAN. Đối với ASEAN, Việt Nam tham gia nghiêm túc vào quá trình xây dựng Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN, Ủy ban liên chính phủ ASEAN về quyền con người, đóng góp tích cực trong các Ủy ban ASEAN về phụ nữ và trẻ em, về lao động đi cư…
Bên cạnh các hoạt động trao đổi về quyền con người giữa các cơ quan chính phủ của Việt Nam với các nước, Việt Nam còn khuyến khích sự trao đổi giữa các học giả về vấn đề quyền con người. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh của Việt Nam đã hợp tác với Thụy Điển, Thụy Sĩ, Canada về đào tạo luật quốc tế về quyền con người, luật nhân đạo; với Quĩ Nhi đồng Liên hợp quốc về quyền trẻ em…
Công tác tuyên truyền đối ngoại trong lĩnh vực quyền con người ngày càng đẩy mạnh. Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tăng cường công tác tiếp xúc tuyên truyền, giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam. Mỗi năm, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi ra nước ngoài hàng trăm nghìn tạp chí, tờ rơi, bản tin chuyên đề về lĩnh vực quyền con người. Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, gắn bó mật thiết với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhờ đó, người dân Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế ngày càng hiểu hơn về chính sách đối ngoại nói chung cũng như các thành tựu trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người ở Việt Nam nói riêng.
Nhân quyền là thành quả chung của nhân loại, do đó trở thành giá trị phổ biến mà mọi quốc gia có quyền thụ hưởng, bảo vệ và thúc đẩy. Tuy nhiên, do sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia và tính đặc thù không thể tách rời các điều kiện kinh tế, xã hội và văn hoá nên mỗi quốc gia có quyền lựa chọn các ưu tiên trong phát triển nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các quyền con người. Tuyên bố Vienna và Chương trình hành động, 1993 (Hội nghị thế giới về Nhân quyền vào ngày 25/6/1993 tại Vienna – Áo) khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau…Trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hoá và tôn giáo thì các quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hoá, có nghĩa vụ đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con người và các tự do cơ bản”[9]. Tuy nhiên, lợi dụng sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch, phản động ngày càng gia tăng sử dụng các vấn đề nhạy cảm trên để chống phá, nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Các thế lực thù địch, phản động tìm cách lợi dụng sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để xuyên tạc, đả kích vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng tăng cường sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng (internet, đài phát thanh, truyền hình) cùng nhiều loại báo chí, ấn phẩm phản động tuyên truyền đa nguyên, đa đảng, gây chia rẻ nội bộ nước ta.
Xuất phát từ động cơ lợi ích riêng, các thế lực này còn sử dụng ngọn cờ nhân quyền để tập hợp lực lượng nhằm tấn công chủ nghĩa xã hội và các nhà nước có quan điểm không đồng nhất với họ trong đó có nước ta. Với các thuyết như “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “Nhân quyền không có biên giới quốc gia” với hàng loạt hoạt động lôi kéo, mị dân, tập hợp quần chúng tổ chức biểu tình, bạo loạn gây rối ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, các thế lực thù địch, phản động đã không ngừng kích động tư tưởng ly khai, tự trị ở các vùng miền của nước ta.
Một số tổ chức quốc tế như Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá quốc tế (AI)…đưa nước ta vào diện những nước cần đặc biệt quan tâm về nhân quyền vì họ cho rằng chúng ta “đàn áp người dân tộc thiểu số”, “đàn áp tôn giáo”, “vẫn còn tồn tại một số lĩnh vực quan ngại như tự do bày tỏ ý kiến, tự do báo chi”. Thậm chí, Hạ viện Mỹ thông qua “Đạo luật nhân quyền Việt Nam” (2001) – đạo luật mang nội dung xuyên tạc thực tế tại Việt Nam. Ngoài ra, nhiều tổ chức quốc tế còn âm mưu gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện về dân chủ, nhân quyền theo kiểu phương Tây. Những hành động trên đã can thiệp thô bạo công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền, đi ngược lại Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta chủ trương giải quyết các vấn đề trên bằng đối thoại hòa bình và mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi; đồng thời kiên quyết đấu tranh, phản bác trước những thông tin sai lệch, những luận điệu phiến diện về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Chúng ta từ tư thế chỉ là tham dự đã ngày càng chủ động, chuyển sang tham gia, ngày càng tích cực đóng góp vào quá trình thảo luận và xây dựng các văn kiện quốc tế, đề ra các sáng kiến liên quan đến quyền con người trên cơ sở giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo trong sách lược với những hình thức linh hoạt, sáng tạo, tranh thủ điểm tương đồng, hạn chế những điểm bất đồng đã giúp bạn bè quốc tế không bị ngộ nhận bởi những luận điện xuyên tạc của các thế lực thù địch và có cái nhìn khách quan, thực chất về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.
Mặc dù vậy, Việt Nam cũng nhìn nhận thấy những hạn chế còn tồn tại như tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường gây ra những vấn đề lo ngại: khoảng cách giàu nghèo, chủ nghĩa cá nhân…có xu hướng gia tăng; điều kiện địa lý và phong tục tập quán của cộng đồng dân cư khá đa dạng và phức tạp giữa miền núi và đồng bằng, nông thôn và thành thị gây khó khăn trong việc xây dựng và triển khai các chính sách cụ thể bảo đảm quyền con người; tư tưởng trọng nam khinh nữ…
Nhận diện những thách thức trên, trước hết, Đảng xác định làm tốt công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt trong công tác bảo vệ quyền con người và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam; đồng thời tập trung thực hiện thắng lợi các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, xây dựng sự đồng thuận trong xã hội, giữ vững ổn định chính trị.
Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam định hướng đến năm 2020, trước mắt là rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn bản luật chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tiễn. Thông qua đó, tính hợp hiến, thống nhất, khả thi, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật được bảo đảm tốt hơn.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Sau giai đoạn thí điểm 2017-2020, đến năm 2025, 100% cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân đưa nội dung quyền con người vào chương trình giảng dạy. Theo đề án, chương trình được xác định cụ thể cho từng cấp học và chương trình đào tạo. Trong bối cảnh quan điểm nhân quyền tư sản đang tác động mạnh vào Việt Nam, việc giáo dục nhân quyền theo quan điểm của Đảng được chú trọng sẽ giúp các cấp, các ngành có cơ sở giải quyết thoả đáng những vấn đề quyền con người mới nảy sinh.
Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Quyền con người luôn là vấn đề thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận thế giới, một nhân tố quan trọng trong các chương trình nghị sự và văn kiện của các Hội nghị quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực cũng như các hiệp định song phương, đa phương. Chính vì vậy, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, các quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về quyền con người cần tiếp tục được quán triệt sâu rộng trong toàn bộ hệ thống chính trị và được tổ chức triển khai mạnh mẽ ở các cấp, các ngành. Mỗi người dân Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài cần nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không ngừng nâng cao nhận thức đúng đắn về quyền con người, góp phần bảo vệ những thành quả đất nước đã giành được trong hơn 70 năm qua và tranh thủ sự ủng hộ tích cực của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực quyền con người./.
 

[1] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2017, tr.256.
[2] Trang điện tử Bộ Tư pháp: Quyền con người từ góc độ pháp lý, đăng ngày 14/1/2016.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.4, tr.8.
[4] Bộ luật nhân quyền quốc tế bao gồm: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1946; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá 1966.
[5] Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị, gia nhập ngày 24/9/1982;
  Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, gia nhập ngày 24/9/1982;
 Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, ký kết ngày 29/7/1980, phê chuẩn ngày 17/2/1982;
 Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, gia nhập ngày 9/6/1982;
 Công ước về Quyền Trẻ em, ký kết ngày 26/1/1990, phê chuẩn ngày 28/2/1990 (Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới và nước châu Á đầu tiên tham gia Công ước);
 Công ước về Quyền của Người khuyết tật, ký ngày 22/11/2007 và phê chuẩn ngày 5/2/2015;
 Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, ký ngày 7/11/2013 và phê chuẩn ngày 5/2/2015.
 
[6] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội, sđd, tr.276.
Các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) là một tập hợp các chỉ tiêu liên quan đến tương lai phát triển quốc tế. Liên hợp quốc đã đề ra các mục tiêu này, để thay cho Các Mục tiêu thiên niên kỷ (MDG) đã hết hạn vào năm 2015.
[8] UPR được thành lập năm 2008, để tiến hành rà soát tổng thể các vấn đề nhân quyền tại tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc, không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo. Các phiên họp rà soát đối với mỗi nước được tiến hành định kỳ bốn năm rưỡi một lần, trên nguyên tắc bình đẳng, đối thoại xây dựng, khách quan, đề cập toàn diện tất cả các vấn đề về quyền con người, nhằm mục tiêu thúc đẩy các nước thực hiện đầy đủ các nghía vụ, cam quốc quốc tế về quyền con người, đồng thời tăng cường chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác quốc tế trên lĩnh vực này.
[9] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người: Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, tr.40.

Tin khác