Kỷ niệm 114 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3/1910-08/3/2024), 1983 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3 và 77 năm Ngày thành lập Trường Đảng tỉnh Bến Tre (Trường Chính trị Bến Tre) (07/3/1947-07/3/2024)!

Thứ sáu, 29 Tháng 3, 2024 - 21:52

Một ngày không quên

ThS. Phan Văn Thuận
                                                                         Trưởng Khoa Xây dựng Đảng.
 
Ngày 05 tháng 6 năm 2019, tại Trường Chính trị Bến Tre, diễn ra cuộc tọa đàm với chủ đề: Bến Tre – 50 năm thực hiện Di chúc và 70 năm lời dạy trong bài báo “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc tọa đàm không những đạt kết quả tốt đẹp về nội dung, yêu cầu đề ra mà càng có ý nghĩa hơn là cuộc toạ đàm được tổ chức đúng vào dịp kỷ niệm 108 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Sự kiện đó giúp chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn ý chí và nghị lực, sự quyết tâm và lòng dũng cảm, hoài bão và di sản tư tưởng,… của Người.
Bến cảng Nhà Rồng, nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (1911)
 

Nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử Việt Nam có những biến đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta từ một nước độc lập thành một “xứ” thuộc địa, nửa phong kiến với yêu cầu bức thiết và cháy bỏng là: “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng”. Chế độ phong kiến Việt Nam cùng với hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc chống ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc. Trong nội bộ giai cấp địa chủ phong kiến có sự phân hóa sâu sắc. Triều đình nhu nhược, cam chịu làm tay sai cho thực dân. Vì vậy các phong trào đấu tranh của nhân dân ta theo ý thức hệ phong kiến (tiêu biểu là phong trào Văn Thân và phong trào Cần Vương) lần lượt đều bị thực dân Pháp dìm trong bể máu.

Sự tác động của tư tưởng tiến bộ ở phương Tây cũng như cuộc cách mạng Tân Hợi và cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc cũng có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, làm dấy lên các phong trào yêu nước chống Pháp theo khuynh hướng dân chủ tư sản như phong trào Đông Du (Phan Bội Châu), Đông Kinh Nghĩa Thục (Lương Văn Can, Nguyễn Quyền), Duy Tân (Phan Chu Trinh),... nhưng cuối cùng cũng đều bị thất bại.

Thất bại của các phong trào – các khuynh hướng đấu tranh ấy chứng tỏ sự bế tắc về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cách mạng việt Nam rơi vào khủng hoảng. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới. Tư tưởng dân chủ tư sản tỏ ra không phù hợp với điều kiện nước ta. Cách mạng Việt Nam đặt ra và yêu cầu phải có con đường cứu nước mới.

Ngày 05 tháng 6 năm 1911, hai mươi mốt tuổi, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, từ bến cảng Nhà Rồng đã đi tìm “con đường cứu nước mới” cho cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Với tên gọi “Văn Ba”, Người nung nấu một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Khi nhiều người đang ngoảnh nhìn về phương Đông với sự ngưỡng mộ “người anh cả da vàng” Nhật Bản - một đế quốc mới ở châu Á, đã chiến thắng nước Nga Sa hoàng trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật năm 1905; hay ngưỡng vọng bác sĩ Tôn Dật Tiên với chủ nghĩa “Tam dân” nổi tiếng và cách mạng Tân Hợi 1911 ở Trung Quốc,… thì Nguyễn Tất Thành tìm đường sang phương Tây, đến nước Pháp, đến nơi sản sinh ra những lời đẹp đẽ: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” đã từng làm rung động lòng mình khi còn ở tuổi thiếu niên. Người ra đi và muốn đến tận nơi sinh ra những lý tưởng cao đẹp đó để tìm hiểu xem thực chất của khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” trong bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của đại cách mạng Pháp.

Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt của một lãnh tụ thiên tài, với hai bàn tay trắng và một nghị lực phi thường, Người xuống tàu Pháp sang “mẫu quốc” để tìm hiểu sự thật về sự “khai hóa văn minh” ở Việt Nam của người Pháp, tìm xem “nước Pháp và các nước khác làm như thế nào để về giúp đồng bào ta”… Người đi là để tìm cho ra một con đường giải phóng cho dân tộc, cứu lấy giống nòi. Hai mươi hai tuổi, đi vòng quanh và đặt chân lên nhiều vùng đất ở châu Phi, Người vẫn chỉ thấy cảnh nô lệ bần hàn, đói khát và tủi nhục. Hai mươi ba tuổi, từ những câu hoa mỹ trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ, Người đến Hoa Kỳ, đã sống ở New York, Bruklin… để tìm ra sự thật của những lời hoa mỹ ấy. Sự thật của “Tự do” tại đất nước được mệnh danh là số một của “Tự do” thật phũ phàng khi Người đặt câu hỏi: Ánh sáng trên đầu Thần (Thần Tự Do) tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần, người da đen đang bị nô lệ, các dân tộc bị áp bức đang bị nô lệ, người phụ nữ đang bị nô lệ…

Năm 1917 Người trở lại Pháp, đầu năm 1919 tham gia Đảng xã hội Pháp. Tháng 7 năm1920, ở tuổi ba mươi, Người tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy chân lý giải phóng dân tộc từ bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Qua đó, Người khẳng định: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người tích cực chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và hình thành cơ bản “con đường cứu nước mới’ cho cách mạng Việt Nam trong “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” của Đảng. Bốn mươi tuổi, với bản lĩnh và ý chí kiên định, Người từng bước vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Cách mạng Tháng Tám thành công, năm mươi lăm tuổi, Người trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công – nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.

Chính vì vậy, “ngày 05 tháng 6” là ngày đánh dấu một cột mốc – một sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn mà chúng ta “không thể nào quên”. Từ ngày ấy, Bác Hồ đã đi “tìm đường” cho dân tộc và trở thành người “dẫn đường” đưa dân tộc đến tự do, độc lập. Ngày ấy cách đây tròn 108 năm, cả dân tộc lúc đó còn đang rên xiết dưới ách thực dân. Tất cả các con đường giải phóng đều bế tắc. Vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách của thời cuộc, những hạn chế của lịch sử, Bác đã đi, đã tìm, đã hy sinh cả tuổi trẻ của mình và đã tìm thấy con đường đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, con đường giải phóng chân chính cho dân tộc, con đường định hướng cho nhân loại tiến bộ. Từ ý chí và nghị lực của tuổi trẻ, từ sự thôi thúc của lòng yêu nước cháy bỏng, từ yêu cầu bức thiết của đất nước và dân tộc, Người đã đi, đã học tập và tìm hiểu không ngơi nghỉ để gom góp, tích lũy trí tuệ, tinh hoa của nhân loại nhằm phục vụ cho sự nghiệp giải phóng quê hương. Người đã sống và cống hiến cho dân tộc, đất nước, sự nghiệp này cả cuộc đời mình. Trước khi vĩnh biệt chúng ta để “đi gặp cụ Các Mác, Cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”, Người để lại cho chúng ta bản Di chúc lịch sử - Bảo vật quốc gia, với “muôn vàn tình thương yêu” và trách nhiệm cao cả của một lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại, với tấm gương sáng về tâm hồn và đạo đức “vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ” của người cộng sản mẫu mực và “điều mong muốn cuối cùng” là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Hôm nay, từ ý chí và nghị lực, quyết tâm và lòng dũng cảm, hoài bão và di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người…, chúng ta tin tưởng rằng: dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự “đoàn kết một lòng” của “toàn Đảng, toàn dân”, chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức để phấn đấu xây dựng nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đường hoàng “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Người hằng mong ước./.

Tin khác